Danh mục

Kinh tế học vi mô: Phân biệt Tiền lương

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 247.53 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sự phân biệt hay Kỳ Thị (Discrimination)Sự phân biệt giới và chủng tộc là những hiện tượng phổ biến trong hầu hết các nền kinh tế. Các nhà kinh tế học nói sự phân biệt nảy sinh khi tiền lương của một công nhân được dựa trên tiêu cực hoặc tích cực các nhân tố khác chứ không được dựa vào năng suất doanh thu cận biên. Các nhà kinh tế học lưu ý sự phân
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế học vi mô: Phân biệt Tiền lương Kinh tế học vi mô: Phân biệt Tiền lương Nguồn: www.saga.vnChương này, chúng ta sẽ xem xét sự phân biệt tiền lương do sự phân biệtchủng tộc, giới tính và độ tuổi. Chúng ta cũng sẽ bàn tới tác động của các tổchức công đoàn trên các thị trường lao động.Sự phân biệt hay Kỳ Thị (Discrimination)Sự phân biệt giới và chủng tộc là những hiện tượng phổ biến trong hầu hết cácnền kinh tế. Các nhà kinh tế học nói sự phân biệt nảy sinh khi tiền lương của mộtcông nhân được dựa trên tiêu cực hoặc tích cực các nhân tố khác chứ khôngđược dựa vào năng suất doanh thu cận biên. Các nhà kinh tế học lưu ý sự phânbiệt có thể là kết quả của một trong những hình thức thành kiến về cá nhân nhưsau: thành kiến của người chủ • thành kiến của người lao động • thành kiến của người tiêu dùng. •Thành kiến của người chủ xảy ra khi người chủ sẵn sàng trả giá cao hơn chonhững nhóm mà họ thích. Trong trường hợp này, một công ty tối đa hoá lợinhuận và không phân biệt có thể thuê những nạn nhân bị phân biệt với mứclương thấp hơn những nhóm được ưa thích. Điều này có nghĩa là các công typhân biệt trên cơ sở thành kiến của người chủ sẽ có chi phí cao hơn và lợinhuận thấp hơn. Becker cho rằng hình thức thành kiến này rút cục sẽ bị xoá bỏbởi áp lực cạnh tranh trên các thị trưòng cạnh tranh tương đối hợp lý (do cáccông ty không phân biệt với người lao động có thể tính giá thấp hơn và vẫn giữnguyên lợi nhuận).Thành kiến của người lao động nảy sinh khi người lao động có thành kiến sẵnsàng chấp thuận mức lương thấp hơn nhằm tránh làm việc cùng với một sốnhóm công nhân khác. Chi phí của hình thức thành kiến này được cho là sự chịuđựng của những công nhân này (ít nhất là về dài hạn). (hiệu đính: sướng ca vôloại và 1 ví dụ của người lao động. Có người ca hát hay, nhưng không đi làm cas ĩ vì họ nghĩ nghề đó không tốt, và thay vào đó làm nghề khác như dạy học).Thành kiến của người tiêu dùng nảy sinh khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giácao hơn cho những sản phẩm được sản xuất hoặc được bán bởi những ngườilao động từ các nhóm mà họ ưa thích. Cho dù thậm chí, hình thức phân biệt nàycó thể tồn tại vô hạn, những người phân biệt sẽ phải chịu phí tổn. (hiệu đính:hàng hiệu là 1 ví dụ cụ thể của thành kiến của người tiêu dùng).Một hình thức phân biệt khác là một hiện tượng được gọi là sự phân biệt thốngkê (statistical discrimination). Những ông chủ không có thông tin hoàn hảo vềnăng suất hoặc khả năng của người lao động xin làm việc cho công ty. Nhữngngười tốt nhiệp đại học xin làm việc vào một vị trí cho trước thường có cùng bảnsơ yếu lý lịch, thư đề nghị, và thậm chí biết cách ăn mặc tương tự và trả lời cáccâu hỏi giống nhau trong các buổi phỏng vấn (thông qua việc đặt kế hoạch vớicác văn phòng tìm việc tại trường đại học). Các công ty phải đưa ra quyết địnhthuê người trong tình huống này sẽ thường đánh giá con người dựa vào năngsuất trung bình mà họ theo dõi được với những người lao động có cùng nănglực trong quá khứ. Ví dụ, nếu họ theo dõi thấy những người tốt nghiệp từ trườngđại học X có năng suất lớn hơn những người tốt nghiệp từ trường đại học Y, họcó xu hướng thuê những người từ trường đại học X nếu hai người có cùng cácđặc tính tương đương xin việc.Nói chung do nữ công nhân và công nhân lớn tuổi có tỷ lệ bỏ việc lớn hơn so vớinam giới trong độ tuổi giữa 20 - 30, nữ công nhân và công nhân lớn tuổi hơnthường là nạn nhân của sự phân biệt thống kê trong các công việc trong đó côngty đưa ra các chương trình đào tạo tốn kém (do việc lựa chọn những công nhânlàm việc trong một giai đoạn thời gian dài ở công ty sẽ mang lại lợi nhuận nhiềuhơn). Các công ty chỉ dựa vào sự phân biệt thống kê sẽ phạm phải một số sailầm, nhưng nói chung sẽ có nhiều lợi hơn các công ty không can dự vào hiệntượng này. Hình thức phân biệt này đặc biệt khó có thể loại bỏ do nó là một thựctế sinh lợi với các công chủ. Về mặt tốt, hiệu ứng của sự phân biệt thống kê vớiphụ nữ sẽ giảm khi tỷ lệ tham gia lực lượng nữ công nhân tăng và tỷ lệ bỏ việcgiảm. (hiệu đính, vì lý do lập gia đình và sinh đẻ, công nhân nữ trong lứa tuổi 20-30 khó xin việc hơn công nhân nam, vì thống kê nói rằng, công nhân nữ, sau khira trường và làm việc vài năm, họ sẽ nghĩ ở nhà trong 1 thời gian dài, 3 đến 12tháng, để trông nom em bé).Sự phân biệt thống kê, cùng với những hiện tượng xã hội và thành kiến, thườngdẫn tới sư tập trung trong một số nghề nghiệp trong đó có một số lượng lớn phụnữ hoặc người thiểu số. Những công việc như y tá, người chăm sóc sức khoẻ,thư ký, và giáo viên tiểu học thường là những công việc có tỷ lệ phụ nữ khôngcân xứng. Do cung lao động là tương đối lớn trong những nghề nghiệp này,điểm cân bằng về mức lương có xu hướng tương đối thấp. Những công việc màđàn ông thường có tỷ lệ vượt trội là kỹ sư, lập trình vi tính, và bác sĩ, có xuhướng ít bị đông và có lương cao hơn. Sự khác bi ...

Tài liệu được xem nhiều: