Kinh tế học vi mô: Tuổi Tác, Anh Sinh Xã Hội và Y Tế
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 155.14 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế đã dành sự chú ý lớn tới việc tìm hiểu kinh tế học về gia đình. Một lĩnh vực quan tâm đặc biệt là quyết định có con của các hộ gia đình. Trong các nền kinh tế đang phát triển, trẻ em mang lại lợi ích tiêu dùng cho bố mẹ (trừ khi chúng tới tuổi thiếu niên). Trẻ em cung cấp dịch
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế học vi mô: Tuổi Tác, Anh Sinh Xã Hội và Y Tế Kinh tế học vi mô: Tuổi Tác, Anh Sinh Xã Hội và Y Tế Nguồn: www.saga.vn Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế đã dành sự chú ý lớn tới việc tìm hiểu kinh tế học về gia đình. Một lĩnh vực quan tâm đặc biệt là quyết định có con của các hộ gia đình. Trong các nền kinh tế đang phát triển, trẻ em mang lại lợi ích tiêu dùng cho bố mẹ (trừ khi chúng tới tuổi thiếu niên). Trẻ em cung cấp dịch vụ lao động trong các nông trang gia đình và cung cấp đảm bảo tuổi già cho bố mẹ chúng tại các nền kinh tế kém phát triển. Biểu đồ dưới đây bao gồm một biểu đồ cung và cầu đơn giản có thể được sử dụng nhằm giải thích số lượng con muốn có của một hộ gia đình. Đường cầu được dự tính là đường có độ dốc đi xuống dưới do kết quả của quy luật tiện ích cận biên giảm dần. Đường cung có thể ban đầu có độ dốc đi lên do chi phí cận biên của đứa con thứ hai có thể thấp hơn của đứa con đầu do cũi, quần áo, đồ chơi và những vật dụng khác có thể được sử dụng thêm một lần nữa. Mặc dù việc nuôi dưỡng trẻ là một hoạt động mất thời gian, người ta dự tính chi phí cận biên cuối cùng cũng tăng (do chi phí cơ hội của lượng thời gian tăng khi nhiều thời gian hơn bị sử dụng cho những hoạt động khác). Số lượng con tối ưu là ở điểm mà tại đó đường cung và đường cầu giao nhau. Thế Chiến thứ II có tác động đáng kể với việc có con. Sau chiến tranh, đàn ông và đàn bà bị chia rẽ bởi chiến tranh có thể có con mà trong những hoàn cảnh khác thì đã có thể đẻ sớm hơn vài năm trước. Thu nhập tăng nhanh đi cùng với việc kết thúc Đại Khủng Hoảng khiến hộ gia đình dễ mua nhà mới và nuôi dưỡng con cái. Điều này dẫn tới tăng tỷ lệ sinh đẻ đáng kể trong những năm 1946- 1961. Từ những năm 1960 trở đi, tỷ lệ sinh giảm. Một trong những lý do chính cho điều này là việc tăng lương của phụ nữ và cơ hội trong thị trường lao động. Lương cao hơn và cơ hội công việc được cải thiện với những phụ nữ đã kết hôn đã tăng đáng kể chi phí cơ hội của việc có con. (Trong biểu đồ trên, điều này cũng được chỉ ra bằng sự giảm sút trong đường cung có con). Khi tỷ lệ lương với phụ nữ lập gia đình tiếp tục tăng, tỷ lệ sinh tiếp tục thấp hơn trong những giai đoạn trước đó. Tỷ lệ ly dị tăng và trình độ giáo dục của phụ nữ tăng cũng giúp duy trì tỷ lệ sinh thấp. Vấn đề tuổi tác và an sinh xã hội Thế hệ bùng nổ sinh đẻ lớn, đi cùng với tỷ lệ sinh thấp trong những thập kỷ gần đây, dẫn tới một vấn đề tiềm ẩn cho hệ thống an sinh xã hội. Khi thế hệ bùng nổ sinh đẻ về hưu, số lượng công nhân hỗ trợ mỗi khách hàng An Sinh Xã Hội sẽ giảm đáng kể. Vấn đề này bị tăng lên nhiều lần do tuổi thọ tăng nhờ vào những cải thiện trong y tế. Những vấn đề đi cùng với hệ thống an ninh xã hội trong tương lai được nói tương đối chi tiết trên trang web An Sinh Xã Hội. Y tế Chi tiêu y tế ở Hoa Kỳ tăng quá nhiều trong những năm gần đây. HMO và những cải biên được tạo ra nhằm phản ứng lại với chi phí y tế tăng. Vấn đề này và những vấn đề khác đi cùng với y tế được trình bày trên trang web cải cách dịch vụ y tế.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế học vi mô: Tuổi Tác, Anh Sinh Xã Hội và Y Tế Kinh tế học vi mô: Tuổi Tác, Anh Sinh Xã Hội và Y Tế Nguồn: www.saga.vn Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế đã dành sự chú ý lớn tới việc tìm hiểu kinh tế học về gia đình. Một lĩnh vực quan tâm đặc biệt là quyết định có con của các hộ gia đình. Trong các nền kinh tế đang phát triển, trẻ em mang lại lợi ích tiêu dùng cho bố mẹ (trừ khi chúng tới tuổi thiếu niên). Trẻ em cung cấp dịch vụ lao động trong các nông trang gia đình và cung cấp đảm bảo tuổi già cho bố mẹ chúng tại các nền kinh tế kém phát triển. Biểu đồ dưới đây bao gồm một biểu đồ cung và cầu đơn giản có thể được sử dụng nhằm giải thích số lượng con muốn có của một hộ gia đình. Đường cầu được dự tính là đường có độ dốc đi xuống dưới do kết quả của quy luật tiện ích cận biên giảm dần. Đường cung có thể ban đầu có độ dốc đi lên do chi phí cận biên của đứa con thứ hai có thể thấp hơn của đứa con đầu do cũi, quần áo, đồ chơi và những vật dụng khác có thể được sử dụng thêm một lần nữa. Mặc dù việc nuôi dưỡng trẻ là một hoạt động mất thời gian, người ta dự tính chi phí cận biên cuối cùng cũng tăng (do chi phí cơ hội của lượng thời gian tăng khi nhiều thời gian hơn bị sử dụng cho những hoạt động khác). Số lượng con tối ưu là ở điểm mà tại đó đường cung và đường cầu giao nhau. Thế Chiến thứ II có tác động đáng kể với việc có con. Sau chiến tranh, đàn ông và đàn bà bị chia rẽ bởi chiến tranh có thể có con mà trong những hoàn cảnh khác thì đã có thể đẻ sớm hơn vài năm trước. Thu nhập tăng nhanh đi cùng với việc kết thúc Đại Khủng Hoảng khiến hộ gia đình dễ mua nhà mới và nuôi dưỡng con cái. Điều này dẫn tới tăng tỷ lệ sinh đẻ đáng kể trong những năm 1946- 1961. Từ những năm 1960 trở đi, tỷ lệ sinh giảm. Một trong những lý do chính cho điều này là việc tăng lương của phụ nữ và cơ hội trong thị trường lao động. Lương cao hơn và cơ hội công việc được cải thiện với những phụ nữ đã kết hôn đã tăng đáng kể chi phí cơ hội của việc có con. (Trong biểu đồ trên, điều này cũng được chỉ ra bằng sự giảm sút trong đường cung có con). Khi tỷ lệ lương với phụ nữ lập gia đình tiếp tục tăng, tỷ lệ sinh tiếp tục thấp hơn trong những giai đoạn trước đó. Tỷ lệ ly dị tăng và trình độ giáo dục của phụ nữ tăng cũng giúp duy trì tỷ lệ sinh thấp. Vấn đề tuổi tác và an sinh xã hội Thế hệ bùng nổ sinh đẻ lớn, đi cùng với tỷ lệ sinh thấp trong những thập kỷ gần đây, dẫn tới một vấn đề tiềm ẩn cho hệ thống an sinh xã hội. Khi thế hệ bùng nổ sinh đẻ về hưu, số lượng công nhân hỗ trợ mỗi khách hàng An Sinh Xã Hội sẽ giảm đáng kể. Vấn đề này bị tăng lên nhiều lần do tuổi thọ tăng nhờ vào những cải thiện trong y tế. Những vấn đề đi cùng với hệ thống an ninh xã hội trong tương lai được nói tương đối chi tiết trên trang web An Sinh Xã Hội. Y tế Chi tiêu y tế ở Hoa Kỳ tăng quá nhiều trong những năm gần đây. HMO và những cải biên được tạo ra nhằm phản ứng lại với chi phí y tế tăng. Vấn đề này và những vấn đề khác đi cùng với y tế được trình bày trên trang web cải cách dịch vụ y tế.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo dục đào tạo kinh tế vi mô vấn đề tuổi tác anh sinh xã hội và y tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 729 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 579 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 549 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 330 0 0 -
38 trang 247 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 242 1 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 234 0 0 -
MẪU ĐƠN XIN XÉT TUYỂN VÀO LỚP 10 TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
2 trang 193 0 0 -
MẪU ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP dạy thêm học thêm ngoài nhà trường
3 trang 188 1 0 -
20 trang 183 0 0