Ngày trước, chỗ này vắng hoe, hoang vắng từ bao giờ hay nghìn xưa vẫn thế, không rõ. Con chích chòe bay vào bên bờ ao cạn, chim nhảy một cái, rún đuôi, hót một tiếng chòe ngân nga giữa buổi chiều lặng im. Con đực gọi con mái về tổ. Chích chòe thịt gầy, mà tanh. Nhưng bẫy được đem chợ bán cũng có người mua chơi. Chích choè khó nuôi, có khi rỉa ăn con châu chấu cũng nghẹn đứt hơi. Đợi phiên chợ, lắm khi chim đã toi bảy đời. Con chim gáy, con gáy béo nùng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kỷ Niệm Chim GáyKỷ Niệm Chim Gáy Sưu Tầm Kỷ Niệm Chim Gáy Tác giả: Sưu Tầm Thể loại: Truyện Ngắn Website: http://motsach.info Date: 24-October-2012Ngày trước, chỗ này vắng hoe, hoang vắng từ bao giờ hay nghìn xưa vẫn thế, không rõ. Conchích chòe bay vào bên bờ ao cạn, chim nhảy một cái, rún đuôi, hót một tiếng chòe ngân ngagiữa buổi chiều lặng im. Con đực gọi con mái về tổ. Chích chòe thịt gầy, mà tanh. Nhưng bẫyđược đem chợ bán cũng có người mua chơi. Chích choè khó nuôi, có khi rỉa ăn con châu chấucũng nghẹn đứt hơi. Đợi phiên chợ, lắm khi chim đã toi bảy đời.Con chim gáy, con gáy béo nùng nục, chim mùa tháng mười bay vào, là là giữa vòm tre. Ngonmắt quá. Tôi cũng sành bẫy chim gáy. Lại hay nghĩ đùa một mình: sao chỉ có con gáy đực mắcbẫy, con mồi cũng đực rựa, con đàn bà mượn tay ta hại ta. Còn tao lừa cả hai, thằng vào tròngthì bây giờ già rồi tao mới nhớ ra tội tao.Tôi vót nan, đẽo cột đem gác bếp làm chiếc lồng quả vả. Cái lưới dây đay căng trước nan lồngtrên cành duối - Ở trong Nam, cái cầu máy chém này là lưng tàu lá dừa.Con mồi trong lồng cất giọng, tiếng gọi con cái. Một thằng nhào tới, đậu xuống cái cầu địnhmệnh, thò ngay mỏ vào đâm tình địch. Lưới bủa xuống, thằng ấy ngã ngửa, giãy lùng nhùngtrong lưới. Tôi bóp cái thăn. Cánh đồng đương gặt, lắm thóc rơi rụng, đùi vế con gáy nào cũngnần nẫn. Tôi vặt lông, nướng chim ở vườn tre bên gốc những cây chàng ràng. Con nào ra mẽ,đầu tém, cổ cườm, vẻ tài tử gáy hay, tôi bỏ vào lồng đợi phiên đem lên chợ bán.Tôi đã sang tuổi thôi chơi nhặt hạt chành ràng vờ làm tiền. Tôi biết bẫy chim có tiền thật. Lạihay nghĩ ngợi lăng băng về anh chàng, chị chàng chim gáy. Tôi cũng như chim và tôi cũng cócon mái. Khoảng vườn hoang này cũng là cái cội của tôi, trong Nam gọi nơi thanh vắng chimgáy hú hí nhau gọi là cội. Cái Răm thường ngày vào quét lá tre về đun bếp. Bố nó nói đặt tênDăm là có ý ước ao lúc nào trong thắt lưng cũng rủng rỉnh dăm ba đồng xèng sai nó đi mua cútrượu, nhưng những quân chết tiệt cứ réo cái Răm, cái Răm. Bọn rỗi miệng lại tán: “Cái rau rămhạ hoả. Nhà chùa thì phải hái răm ăn đêm, chứ ở đời có miếng dồi chó lại kiêng thì có mà dạihơn con chó. Nhưng cái con Răm này thì ăn lại ngon, thế mới chết!”.Cái Răm có hai con mắt lá răm, đuôi mắt dài ươn ướt, nhìn ai cứ như sắp tứa nước ra. Tôi chẳngtha, nó vương bẫy cò ke tôi rồi. Nhưng tôi lại mất của về nó. Răm thích chén thịt chim gáynướng. Tôi sĩ diện, có hôm không bẫy được, tôi đã đem ra cả con gáy ở nhà định đợi bán chợ.Răm nhanh tay vặt lông chim, mổ moi. Tôi trổ tài nướng chim cả con trên đống than que củi nóvừa kiếm được một bó. Ngày ấy, tôi chưa biết mùi rượu. Mà chỉ nhá thịt chim gáy cũng say. Tôinhìn cái Răm ăn như đứa chết đói, con mắt lá răm long lanh đầm đìa lên thế kia thì tôi phải sayTrang 1/6 http://motsach.infoKỷ Niệm Chim Gáy Sưu Tầmrồi.Tốn mồi thế mà nào có ăn thua. Cuối năm, Răm lấy chồng. Một thằng ở làng trên chài được nó.Chẳng biết người mối lái hay gặp nhau ở phiên chợ, ở hội hè, ở bờ bụi nào. Thằng ấy làm vatman tầu điện. Làng tôi lam lũ thế này thì thằng vat man lái tàu, thằng sơ vơ bán vé tàu đượctiếng đi làm việc Tây ngoài kẻ chợ, có lĩnh lương tháng, có ngày chủ nhật nghỉ, tôi sao địch nổi. oOoNghề canh cửi làng tôi long đong quá. Tơ Tầu bên Hồng Kông không bán sang nữa, mà tơ tằmthì chết đã lâu. Xưa rày, lụa Hà Đông lái vẫn buôn vào Sài Gòn, bây giờ đường xe lửa bị nhàbinh Pháp rồi Nhật sung công. Người làng bỏ đi cao su đất đỏ, sang tận xưởng dệt ở Kampôtbên Cao Miên. Nhiều người chẳng bao giờ về.Tôi cũng bơ vơ đi. Thoạt đầu vào Sài Gòn. Có người mách trên Bến Cát mới mở Sở Củi đangcần nhiều người vào rừng hạ cây, đốt lò, tải than ra sông xuôi Sài Gòn. Tôi lên Bến Cát, xinđược một chân chấm công. Ngày ngày cắp rổ vào rừng, ra các lò than, xuống bến điểm côngcho cu li làm cả ngày, nửa ngày, làm đêm.Xảy ra một chuyện không may chẳng bận gì đến công việc. Ông Tây chủ Sở Củi, lão già baonhiêu tuổi không đoán được. Đầu tóc, râu xồm tua tủa trổ kín mặt, nhô ra cái mũi nhọn hoắt, đỏtím. Lúc nào lão cũng kè kè bình toong rượu. Đến khuya, lão xuống nhà dưới chỗ tôi nằm. Lãodựng tôi dậy, kéo tụt quần tôi. Tôi khiếp quá, đẩy lão, biến ra rừng. Sáng hôm sau đã thấy lãongồi bàn giấy, cái bình toong để trước mặt. Lão đưa quyển sổ chấm công, lão không nhìn tôi,như không phải con dê đêm qua.Tôi vẫn công việc như thường ngày nhưng đêm đến lại bị lão mò xuống. Tôi lại chạy vào rừng.Hôm sau, lại như mọi ngày bình thường, khi lão cắm cúi sổ sách, khi lão cầm gậy hò hét, đuổiđánh cu li. Và vẫn thản nhiên đưa tôi quyển sổ chấm công. Mấy đêm tôi phải ngồi gốc cây,không dám chợp mắt. Sương rơi xuống lá khô tí tách như hạt mưa, như tiếng con thú, con rắnđương ngoằng tới. Có thể, con sói, con beo rình tha tôi đi.Tôi ra ngủ nhờ nhà thằng Gạc Rang dưới bến. Gạc Rang hàng ngày chạy thư trên huyện về xã.Ở làng tôi người trạm tráng thường được gọi tôn lên là bác Đội trạm. Đây gọi là gì, nhưng chắcGạc Rang không phải tên người, không phải tên việc phát thư. Có lẽ trước kia nó gác rừng trênDầu Tiếng, còn lại cái tên “Gạc Rang” hay là tên gốc Miên thế. Gạc Rang cao lớn, mắt lồi đennhư củ gắm. Gạc Rang ở một mình. Một gian nhà che ván như lều chợ. Gạc Rang đeo cái túidết bao bố, khi cởi trần đi chân không.Tôi ngủ đêm yên tĩnh ở nhà Gạc Rang, hôm sau vào bàn giấy, lão râu xồm chủ sở lại đưa choquyển sổ chấm công cu li. Cuối tuần lĩnh lương, ngày ngày uể oải triền miên thế.Một buổi, tôi vào cửa, lão đứng dậy. Lão hếch râu thở phì phì rồi giơ cái gậy s ...