Danh mục

Kỹ thuật nuôi vẹm xanh (phần 1)

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 117.65 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vẹm vỏ xanh (Perna viridis) được coi là đối tượng hai mảnh vỏ quan trọng ở khu vực ven biển nước ta, với hàm lượng dinh dưõng tương đối cao, Vẹm vỏ xanh trở thành nguồn thực phẩm không thể thiếu của các gia đình ngư dân ven biển. Vẹm vỏ xanh dễ nuôi, chi phí đầu tư ít, rất phù hợp cho nuôi hộ gia đình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kỹ thuật nuôi vẹm xanh (phần 1) Kỹ thuật nuôi vẹm xanh (phần 1)Nguồn: khuyennongvn.gov.vnVẹm vỏ xanh (Perna viridis) được coi là đối tượng hai mảnh vỏ quan trọng ở khuvực ven biển nước ta, với hàm lượng dinh dưõng tương đối cao, Vẹm vỏ xanh trởthành nguồn thực phẩm không thể thiếu của các gia đình ngư dân ven biển. Vẹmvỏ xanh dễ nuôi, chi phí đầu tư ít, rất phù hợp cho nuôi hộ gia đình. Tuy nhiên,nghề nuôi vẹm ở nước ta còn mang tính tự phát của ngư dân ven biển, nguồngiống chủ yếu thu ngoài tự nhiên, trang thiết bị phục vụ cho nuôi trồng còn rất thôsơ. Cho nên nghề nuôi này chưa được phát triển đúng mức.1. Nguồn giống- Bãi lấy giốngBãi lấy giống được lựa chọn thường là những nơi có vẹm trưởng thành sinh sống,nơi có nguồn nước chảy nhẹ, ấu trùng không bị phân tán xa, chất đáy tốt. Nơi códòng nước chảy mạnh, việc thả vật bám thu con giống sẽ gặp nhiều khó khăn, mặtkhác ấu trùng phù du cũng không thể sống ở những nơi có dòng nước chảy mạnh.Do đó, lựa chọn bãi lấy giống còn phải dựa trên tập tính sống của ấu trùng, tầngnước phân bố của nó.- Mùa vụ lấy giốngMùa vụ lấy giống phụ thuộc vào mùa vụ sinh sản của vẹm xanh, khả năng vớtgiống phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm. Thông thường, mùa vụ vớt giống diễn ravào mùa vụ đẻ rộ nhất của vẹm trưởng thành. Vẹm đẻ rải rác quanh năm khoảngtừ tháng 6 đến tháng 2 năm sau, rộ nhất vào tháng 10 - 12. Do đó có thể xác địnhthời điểm thu con giống đạt cao nhất.- Phương pháp vớt giốngVẹm cũng như các loài nhuyễn thể khác, sau thời gian sống phù du, ấu trùngchuyển sang giai đoạn sống bám. Như vậy, khoảng 15 ngày sau khi xác định đượcthời điểm đẻ rộ nhất của vẹm thì tiến hành thả vật bám. Vẹm có khả năng bám lêntất cả các loại vật bám như: tre, nứa, đá..., tuỳ theo nguyên liệu làm vật bám, địađiểm thả vật bám mà có các phương pháp lấy giống khác nhau:+ Căng dâySử dụng các loại dây thừng to có phi ¢ = 3,5 cm căng trên các cọc gỗ cắm dướinước. Tuỳ theo mức nước hay tốc độ dòng chảy của từng vùng thả vật bám màhình thành nên các phương pháp căng dây khác nhau: căng dây ngang song songvới mặt đáy, căng dây theo hình chóp nón. Để tăng thêm diện tích bám cho vẹmxanh, trên các dây thừng cứ 30cm buộc một bó xơ dừa hoặc cách 15cm buộc mộtnút trên mỗi nút là xâu 2 sợi dây thừng dài 20cm sau đó xé thành các sợi nhỏ.Ngoài ra, có thể dùng vật bám là vỏ điệp Placuna placenta, vỏ hầu Crassostrea sp.,xâu vào các dây thép 12 hoặc dây thừng ệ = 0,3 - 0,5cm thành từng chuỗi dài 1,2 -1,5 m treo dưới các ống phao nổi ở bãi giống nơi xác định có ấu trùng vẹm phânbố.+ Cắm cọcDùng tre hoặc nứa có chiều dài khoảng 2m cắm riêng rẽ hoặc thành từng cụm từ 3– 5 cọc. Cọc được cắm thành từng dãy ở vùng triều thấp nơi có nhiều ấu trùngvẹm phân bố. Để tăng thêm diện tích bám cho ấu trùng có thể dùng các sợi dâythừng quấn quanh các cọc. Ngoài ra, có thể dùng các cọc tre dài khoảng 3m đóngcố định xuống nền đáy, khoảng cách giữa các cọc là 2 - 2,5m. Dùng dây thừngcăng trên 2 cọc và treo các tấm mành tre có kích thước 1,5 x 0,5 m, mỗi điểm cóthể treo 2 - 3 tấm mành liên tiếp nhau.+ Th ả đ ảĐây là phương pháp được sử dụng nhiều ở những khu vực nước nông gần bờ, độtrong lớn, chất đáy chủ yếu là đá. Sử dụng các viên đá có kích thước vừa phải, bềmặt ráp, hoặc có thể sử dụng ngay các viên đá có sẵn ở tầng đáy để làm vật bámcho vẹm.

Tài liệu được xem nhiều: