Danh mục

Lãi suất và đặc điểm của lãi suất

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 323.03 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lãi suất và đặc điểm của lãi suất Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lãi suất và đặc điểm của lãi suấtLãi suất và đặc điểm của lãi suất 11. Lãi suất và đặc điểm của lãi suấtTrong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm mộtphần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm nàyso với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phảiđược trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngàymai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sửdụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền lớn hơn ngày mai. Sẽkhông có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm đó hoặc là nókhông đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính vàhoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tíndụng Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Lãi được hiểu là khoản tiền bên vay,huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặcbên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãiđược tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất ([1]).Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vaytrong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữuvốn([2]).Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ củatổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhấtđịnh. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sởhữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.Từ những cơ sở trên, tác giả xin được đưa ra định nghĩa về lãi suất như sau: lãisuất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào sốtiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, 2tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vàolãi suất số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Sốtiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay.Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiềnsẽ không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượtquá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối vớiloại cho vay tương ứng”([4]). Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấphai, ba hoặc nhiều lần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranhchấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án chấp nhận không vượt quá “150%mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.Đặc điểm của lãi suấtLà một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thầncủa cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:· Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Quanghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, chothuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suấtchủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bênvay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệxác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợpđồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếutố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ sởđể tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quyđịnh.· Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh dothoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãisuất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền 3vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu nhưkhông tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.· Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay):Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó,tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên cóthể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suấtCó thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan hệpháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng kiểmsoát của pháp luật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật củanước ta còn thiếu cụ thể, tính khả thi không cao, hơn nữa luật nước ta là luậtkhung, muốn thi hành được trên thực tế phải có Nghị định hướng dẫn thi hành.Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào tình trạng này. Trong BLDS2005 chỉ quy định duy nhất một điềuvề lãi suất một cách trực tiếp:“Điều 476. Lãi suất1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãisuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác địnhrõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngânhàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”.Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quákhái quát sẽ tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đivà lợi dụng nó để kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lànhmạnh.Lãi suất cơ bản được quy định trong điều 476 bỗng dưng đã gây tranh cãi xem cónên sửa đổi hay không. Lãi suất này tự dưng trở thành mốc để suy ra lãi suấttrần. Ví dụ có thời điểm lãi suất cơ bản lãi 12%/năm suy ra lãi suất cho vay tối ...

Tài liệu được xem nhiều: