Lăng Ông Bà Chiểu
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 398.86 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lăng Ông Bà Chiểu, tên gọi đúng là Thượng Công miếu, là khu lăng mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832). Khu lăng tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lăng Ông Bà Chiểu Lăng Ông Bà ChiểuLăng Ông Bà Chiểu, tên gọi đúng là Thượng Công miếu, là khu lăng mộ của Tảquân Lê Văn Duyệt (1764-1832). Khu lăng tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng, phường1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.Vị trí, tên gọiLăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500m2, nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, PhanĐăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng trên một gò đất cao. Và do lệ kiên cử tên, khôngbiết từ lúc nào, người dân đã ghép hai từ “lăng Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khulăng của Tả Quân.Theo nhà văn Sơn Nam, tên Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức.Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên.Ở Thủ Ðức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.Lịch sửTrong công trình kiến trúc của Lăng Ông Bà Chiểu, được xây dựng sớm nhất là phần mộNăm 1835 sau sự biến thành Phiên An, Lê Văn Duyệt bị lên án và buộc tội đã gián tiếpgây nên biến loạn, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, xiềng xích sắt, trên dựngbia đá có khắc tám chữ Quyền yểm Lê Văn duyệt phục pháp xử (chỗ tên hoạn quan LêVăn Duyệt chịu tội).Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ.Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồiquan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đứcxem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ.Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.Trong khu vực lăng còn có mộ vợ ông là bà Đỗ Thị Phận và hai cô hầu. Ngày 6 tháng 12năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấpquốc gia.Và từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914 việc cúng tế được tổchức đều đặn hàng năm và việc trùng tu cũng được tiến hành nhiều lần…Kiến trúcChung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2m được trổ bốn cổng ravào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng đượcxây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam,mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng củavùng Sài Gòn – Gia Định xưa.Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính, từ cổng Tam Quan vào gồm: Nhàbia-lăng mộ-miếu thờ.Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Vănbia chữ hán tiêu đề Lê công miếu bi do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nộidung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.Toàn thể khu mộ đều được xây bằng hợp chất. Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợông, bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hìnhdạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộcó một sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Baoquanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhangđèn.Cách khu Lăng Ông Bà Chiểu một khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linhmiếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê VănDuyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờcách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là haidãy Đông lang và Tây lang…Công trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái “trùngthiềm điệp ốc” và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ thuậtchạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ…mà nơi thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹpcổ kính cho đến ngày nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lăng Ông Bà Chiểu Lăng Ông Bà ChiểuLăng Ông Bà Chiểu, tên gọi đúng là Thượng Công miếu, là khu lăng mộ của Tảquân Lê Văn Duyệt (1764-1832). Khu lăng tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng, phường1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.Vị trí, tên gọiLăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500m2, nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, PhanĐăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng trên một gò đất cao. Và do lệ kiên cử tên, khôngbiết từ lúc nào, người dân đã ghép hai từ “lăng Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khulăng của Tả Quân.Theo nhà văn Sơn Nam, tên Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức.Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên.Ở Thủ Ðức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.Lịch sửTrong công trình kiến trúc của Lăng Ông Bà Chiểu, được xây dựng sớm nhất là phần mộNăm 1835 sau sự biến thành Phiên An, Lê Văn Duyệt bị lên án và buộc tội đã gián tiếpgây nên biến loạn, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, xiềng xích sắt, trên dựngbia đá có khắc tám chữ Quyền yểm Lê Văn duyệt phục pháp xử (chỗ tên hoạn quan LêVăn Duyệt chịu tội).Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ.Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồiquan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đứcxem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ.Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.Trong khu vực lăng còn có mộ vợ ông là bà Đỗ Thị Phận và hai cô hầu. Ngày 6 tháng 12năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấpquốc gia.Và từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914 việc cúng tế được tổchức đều đặn hàng năm và việc trùng tu cũng được tiến hành nhiều lần…Kiến trúcChung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2m được trổ bốn cổng ravào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng đượcxây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam,mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng củavùng Sài Gòn – Gia Định xưa.Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính, từ cổng Tam Quan vào gồm: Nhàbia-lăng mộ-miếu thờ.Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Vănbia chữ hán tiêu đề Lê công miếu bi do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nộidung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.Toàn thể khu mộ đều được xây bằng hợp chất. Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợông, bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hìnhdạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộcó một sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Baoquanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhangđèn.Cách khu Lăng Ông Bà Chiểu một khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linhmiếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê VănDuyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờcách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là haidãy Đông lang và Tây lang…Công trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái “trùngthiềm điệp ốc” và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ thuậtchạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ…mà nơi thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹpcổ kính cho đến ngày nay.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Lăng Ông Bà Chiểu địa danh việt nam địa lý việt nam địa danh lịch sử du lịch việt nam địa danh nổi tiếngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 321 2 0 -
10 trang 89 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 79 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 55 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 54 0 0 -
15 trang 51 0 0
-
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 42 0 0 -
146 trang 41 0 0
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 2
176 trang 40 0 0 -
Du lịch và cẩm nang hướng dẫn (Tập 1): Phần 1
305 trang 38 0 0