Vạn Phúc - tự Tử Đường, người Bắc Hưng thuở nhỏ đã theo đòi nghiệp nho, của nả không có gì lắm mà vận lại chậm, đã hai mươi có lẻ mà vẫn chưa giật được mảnh tú tài. Theo lệ tục hương thôn lúc ấy, nhiều người bị khoác chức trưởng lý đến nỗi khuynh gia bại sản. Vạn bị ép sung chức ấy, sợ quá bỏ trốn đến Tế Nam, thuê quán trọ ở. Ban đêm có cô gái lần tới, nhan sắc cũng khá. Vạn vừa lòng, cùng nhau tư tình. Hỏi họ tên, cô ta đáp:...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Liêu trai chí dị - Phần 60 Phần 60 Hồ Hay ĐùaVạn Phúc - tự Tử Đường, người Bắc Hưng thuở nhỏ đã theo đòi nghiệp nho, của nảkhông có gì lắm mà vận lại chậm, đã hai mươi có lẻ mà vẫn chưa giật được mảnh tútài. Theo lệ tục hương thôn lúc ấy, nhiều người bị khoác chức trưởng lý đến nỗikhuynh gia bại sản. Vạn bị ép sung chức ấy, sợ quá bỏ trốn đến Tế Nam, thuê quántrọ ở.Ban đêm có cô gái lần tới, nhan sắc cũng khá. Vạn vừa lòng, cùng nhau tư tình. Hỏi họtên, cô ta đáp:- Thú thực tôi là hồ ly, nhưng không làm hại anh đâu.Van mạùng, không nghi ngờ gì cả. Cô gái còn dặn Vạn chớ ở chung với ai, hàng ngàycô sẽ tới cùng ăn nằm một giường. Thế là từ đấy mọi chi phí hàng ngày của Vạn đềudo cô ta cung cấp.Được ít lâu, vài ba người quen biết đến thăm hỏi, rồi ở lì cả đêm không về. Vạn ớnhọ quá, song không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thực. Khác ngỏ ý muốn đượcchiêm ngưỡng dung nhan người đẹp, Vạn nói thẳng với Hồ nữ. Hồ bảo khách:- Xem tôi làm gì? Tôi cũng như mọi người vậy thôi! Nghe tiếng nói thỏ thẻ cứ như ởtrước mặt, nhìn khắp bốn chung quanh lại chẳng thấy đâu.Khách có người tên là Tôn Đắc Ngôn vốn giỏi khôi hài cố ý xin gặp mặt. Anh ta nănnỉ:- Được nghe giọng oanh, hay bay phách lạc. Còn giấu dung nhan làm gì khiến ngườimới nghe tiếng đồn mà lăn ốm tương tư.Hồ cười đáp:- Cháu hiền muốn vì bà cụ tổ họa bức hình hành lạc ( bức họa về những biểu hiệnkhoái lạc, những động tác trong tình dục) chăng?Khách có mặt lại cười. Hồ lại nói:- Tôi là hồ, xin vì khách kể chuyện hồ, khách có vui lòng nghe không?Mọi người đều vân dạ, hưởng ứng. Hồ kể:- Xưa ở lữ quán nọ có nhiều hồ lắm, thường hiện hình làm hại khách. Khách qua lạibiết, rỉ nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán tiêu điều, chủ nhân lo quá, rấtkiêng nói đến Hồ. Bỗng có một khách phương xa, tự xưng là người nước ngoài, đếncửa quán ấy thì dừng lại nghỉ. Chủ nhân đon đả rước vào. Lập tức có người đi đườngmách kín với khách: nhà ấy có Hồ đấy! Khách sợ, nói thẳng với củ nhân rồi định bỏ đinơi khác. Chủ nhân ra sức biện bạch, đó là lời nói bậy. Khách ở lại, vào nhà,, vừa ngãlưng đã thấy đàn chuột rút rích dưới gầm giường. Khách sợ quá, chạy bổ ra đường,hét tướng lên: “Có hồ!” Chủ nhânn hoảng hỏi sự tình, khách oán trách:- Tổ Hồ ở đây, sao nói dối ta không có?Chủ nhân lại hỏi: “Hình thù nó thế nào?” Khách đáp:“Ta nay mới thấy, nó nho nhỏ, không phải là Hồ con tất là Hồ cháu”.Hồ kể xong, tất cả khách trong nhà đều không nhịn được cười. Tôn lại dọa:- Nếu không cho xem mặt, bọn tôi ngủ lại; cũng xin ai đó đừng bỏ đi, bỏ lỡ cuộc hẹnđợi mây mưa.Hồ lại cười:- Các ông cứ nghỉ lại, không sao. Nếu có làm điều gì ngỗ nghịch một tý, xin các ôngchớ có trệ bụng ra thôi. Khách sợ bị cợt nhã quá đáng, đều cùng nhau chia tay ra về.Sau đó, cứ vài ngày họ lại đến, quần tụ, đòi Hồ trêu cợt. Hồ khôi hài thậm giỏi, hễcất tiếng là khách cười ngả cười nghiêng, đến ngay những người có tài hoạt kê cũngkhông thể hơn được, mọi người gọi đùa nàng là “Hồ nương tử”.Một hôm, bày rượu tụ hội vui mừng. Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai khách nữa chiangôi tả hữu. Còn đặt một cái giường để mời Hồ, Hồ kiếu từ vì không hay rượu. Tấtcả đều mời Hồ cùng ngồi nói chuyện, Hồ nhận. Rượu được vài tuần, khách bày tròném súc dắc làm tửu lệnh “qua man” ( dây dưa). Khách trúng màu dưa, phải uốngrượu, liền đùa nâng chén đưa lên giường nói:- Hồ nương tử, bậc đại tinh, xin tạm cạn một chén.Hồ cười:- Tôi vốn không uống, xin kể một câu chuyện để góp vui cho cuộc rượu.Tôn đã bị nhiều vố, nên bịt tai lại ra vẻ không muốn nghe. Những người khác đềuđồng thanh:- Nếu còn trêu chọc người thì phải phạt.Hồ cười:- Nếu tôi trêu chọc Hồ thì sao?Tất cả đáp “được”, rồi cùng nhau giỏng tay nghe. Hồ kể:- Ngày xửa ngày xưa có một bậc đại thần đi sứ nước Hồng Mao (chỉ nước Anh hoặcHà Lan) đội mũ lông hồ, vào yết kiến quốc vương nước ấy. Vua trông thấy cái mũ lạ,hỏi lông gì mà vừa dầy vừa mềm như thế? Quam đaị thần thưa: lông hồ. Quốc vươngbảo: Bình sinh ta chưa được nghe nói tới, tự dạng chữ “hồ” như thế nào. Vị đại thầnlấy tay vạch lên không tâu rằng: bên phải là chữ “qua” lớn, bên trái là chữ “khuyển”nhỏ (1). Thế là chủ kah1ch cười ầm cả nhà.Trong số ba người khách, ngoài Tôn ra, có hai anh em họ Trần một người tên Sở Kiến,một người tên Sở Văn. Họ thấy Tôn bị hố nhiều quá, liền nói chọc Hồ:- Hồ đực đi đâu mà để Hồ cái ác hại thế này?Hồ nói thêm:- Ấy, câu chuyện còn chưa hết thì đã bị sủa loạn lên, giờ xin kể tiếp. Quốc vươngHồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, cũng lấy làm lạ. Sứ thần thưa rằng: con nàydo con ngựa đẻ ra. Vương lại càng lạ lắm. Sứ thần giải thích: Ở Trung Quốc chúngtôi, con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai. Vương hỏi rõ hình dáng chúng.Sứ thần đáp: Ngựa đẻ la đó là Thần Sở Kiến; la đẻ ra ngựa choai đó là Thần Sở Văn(chú ý tên hai ông khách họ Trần là Sở Kiến và Sở Văn).Cử tọa lại cười ầm ĩ. ...