Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam
Số trang: 171
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.91 MB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đề tài "Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam" được triển khai nghiên cứu gắn với bối cảnh thực tế của các dự án đầu tư công ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được mong đợi sẽ góp phần vào lý thuyết về nguyên nhân, hiệu ứng vượt dự toán và chậm tiến độ các dự án đầu tư công.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn tái cấu trúc kinh tế: (i) giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới; (ii) giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á năm 1997 và (iii) giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Trong mỗi giai đoạn phát triển, đầu tư công được xem như là công cụ quan trọng để Chính phủ thực hiện quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Theo đó, thể chế và chính sách đầu tư công luôn được Chính phủ điều chỉnh để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả. Dù là vậy, cho đến nay, đầu tư công được đánh giá là còn kém hiệu quả xét trên khía cạnh hiệu suất sử dụng đồng vốn. Hệ số ICOR của đầu tư khu vực Nhà nước giai đoạn 1995 – 2011 là rất cao so với suất đầu tư chung của xã hội (Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2012). Bảng 0.1 cho thấy hệ số ICOR của đầu tư khu vực nhà nước luôn cao hơn hệ số ICOR chung toàn xã hội, từ 1,3 – 1,4 lần. Bảng 0.1: Hệ số ICOR chung và khu vực đầu tư nhà nước qua các giai đoạn 1995 – 2000 2001 – 2005 2005 – 2011 Đầu tư chung 4,25 4,62 6,10 Đầu tư khu vực nhà nước 6,25 5,99 8,52 Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2012 Lý thuyết về quản lý dự án đầu tư chỉ ra dự án đầu tư thành công là một dự án phải đảm bảo được mục tiêu đã đề ra trong khuôn khổ thời gian và giới hạn nhất định của ngân sách (PMI, 2013). Dự án được hoàn thành đúng hạn là một trong những mục tiêu không những của khách hàng/chủ đầu tư mà còn của nhà thầu, bởi mỗi bên sẽ phải chịu thêm gánh nặng chi phí và mất đi doanh thu tiềm năng một khi dự án hoàn thành chậm (Thomas và cộng sự, 1995). Chan và Kumaraswamy (1996) cho rằng một dự án thường được coi là thành công nếu nó được hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách và mức độ tiêu chuẩn chất lượng theo quy định. 2 Vượt dự toán và chậm tiến độ có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau đối với nhiều loại hình dự án khác nhau. Điều này dẫn đến nhiều tranh luận về việc làm thế nào để giảm thiểu tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán. Ðã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công (Mansfield và cộng sự, 1994; Kaming và cộng sự, 1996; Koushki và Kartam, 2004). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư có thể kể đến từ việc quản lý dự án yếu kém cho đến các yếu tố khách quan bên ngoài. Hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới tập trung khám phá các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán tại mỗi nước. Điều này cho thấy tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán thật sự là vấn đề phổ biến. Tại Việt Nam, tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán của các dự án đầu tư công được các nhà hoạch định chính sách, quản lý dự án xem như là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư công. Trong một văn bản trình Thủ tướng về công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2014, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh thừa nhận nhiều dự án vẫn còn chậm tiến độ, tỷ lệ các dự án điều chỉnh còn khá cao. Ông Vinh khẳng định việc chậm tiến độ là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư, tác động tiêu cực đến nền kinh tế (Tư Giang, 2015). Báo cáo tổng hợp công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư qua các năm 2010, 2011, 2012 và 2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên đưa ra số liệu về số dự án chậm tiến độ chiếm khoảng từ 9,59% đến 11,77% số dự án thực hiện trong năm; số dự án phải điều chỉnh (trong đó có điều chỉnh tiến độ và điều chỉnh vốn đầu tư) chiếm khoảng từ 11% đến 16,09% số dự án thực hiện trong kỳ. Số liệu tổng hợp hàng năm cho thấy tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán là vấn đề cần quan tâm trong quản lý dự án đầu tư công. Báo cáo giám sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư công nhưng chưa đề ra các giải pháp khắc phục tình trạng này. Để giải quyết vấn đề, cần thiết phải xác định, phân tích về phương diện học thuật các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công. 3 Lý thuyết quản lý dự án cũng chỉ ra rằng vấn đề vượt dự toán và chậm tiến độ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có nhiều công trình thực nghiệm tiến hành nghiên cứu hai vấn đề này một cách riêng biệt (Azhar và cộng sự, 2008; Han và cộng sự, 2009; Cantarelli và cộng sự, 2012; Hamazh và cộng sự, 2011…); nhưng cũng có nhiều công trình nghiên cứu đồng thời cả hai vấn đề này trong cùng một thang đo (Claire Bordat và cộng sự, 2004; Ramanathan và cộng sự, 2012)… Cho đến nay, chủ đề này ở Việt Nam chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế, nhất là dự án đầu tư công. Lê Hoài Long và cộng sự (2008) nghiên cứu về những nguyên nhân gây ra chậm tiến độ và vượt dự toán trong các dự án đầu tư lớn tại Việt Nam, nhưng đó là các dự án quy mô vốn trên 1 triệu USD nói chung mà không nghiên cứu riêng trường hợp dự án đầu tư công. Dự án đầu tư công có những khác biệt nhất định: khác biệt về vai trò vị thế của chủ đầu tư, khác biệt về cung cách quản lý nguồn vốn, về khung pháp lý mà các bên phải tuân thủ... Do vậy, kết quả nghiên cứu của Lê Hoài Long và cộng sự (2008) cũng chưa bao quát hết các nguyên nhân và giải pháp đặc thù cho trường hợp dự án đầu tư công ở Việt Nam. Đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam” được triển khai nghiên cứu gắn với bối cảnh thực tế của các dự án đầu tư công ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được mong đợi sẽ góp phần vào lý thuyết về nguyên nhân, hiệu ứng vượt dự toán và chậm tiến độ các dự án đầu tư công. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu cơ bản của luận án là khám phá các yếu tố dẫn đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán của dự án đầu tư công ở Việt Nam. Đầu tư công ở Việt ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn tái cấu trúc kinh tế: (i) giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới; (ii) giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á năm 1997 và (iii) giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Trong mỗi giai đoạn phát triển, đầu tư công được xem như là công cụ quan trọng để Chính phủ thực hiện quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Theo đó, thể chế và chính sách đầu tư công luôn được Chính phủ điều chỉnh để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả. Dù là vậy, cho đến nay, đầu tư công được đánh giá là còn kém hiệu quả xét trên khía cạnh hiệu suất sử dụng đồng vốn. Hệ số ICOR của đầu tư khu vực Nhà nước giai đoạn 1995 – 2011 là rất cao so với suất đầu tư chung của xã hội (Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2012). Bảng 0.1 cho thấy hệ số ICOR của đầu tư khu vực nhà nước luôn cao hơn hệ số ICOR chung toàn xã hội, từ 1,3 – 1,4 lần. Bảng 0.1: Hệ số ICOR chung và khu vực đầu tư nhà nước qua các giai đoạn 1995 – 2000 2001 – 2005 2005 – 2011 Đầu tư chung 4,25 4,62 6,10 Đầu tư khu vực nhà nước 6,25 5,99 8,52 Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2012 Lý thuyết về quản lý dự án đầu tư chỉ ra dự án đầu tư thành công là một dự án phải đảm bảo được mục tiêu đã đề ra trong khuôn khổ thời gian và giới hạn nhất định của ngân sách (PMI, 2013). Dự án được hoàn thành đúng hạn là một trong những mục tiêu không những của khách hàng/chủ đầu tư mà còn của nhà thầu, bởi mỗi bên sẽ phải chịu thêm gánh nặng chi phí và mất đi doanh thu tiềm năng một khi dự án hoàn thành chậm (Thomas và cộng sự, 1995). Chan và Kumaraswamy (1996) cho rằng một dự án thường được coi là thành công nếu nó được hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách và mức độ tiêu chuẩn chất lượng theo quy định. 2 Vượt dự toán và chậm tiến độ có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau đối với nhiều loại hình dự án khác nhau. Điều này dẫn đến nhiều tranh luận về việc làm thế nào để giảm thiểu tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán. Ðã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công (Mansfield và cộng sự, 1994; Kaming và cộng sự, 1996; Koushki và Kartam, 2004). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư có thể kể đến từ việc quản lý dự án yếu kém cho đến các yếu tố khách quan bên ngoài. Hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới tập trung khám phá các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán tại mỗi nước. Điều này cho thấy tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán thật sự là vấn đề phổ biến. Tại Việt Nam, tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán của các dự án đầu tư công được các nhà hoạch định chính sách, quản lý dự án xem như là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư công. Trong một văn bản trình Thủ tướng về công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2014, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh thừa nhận nhiều dự án vẫn còn chậm tiến độ, tỷ lệ các dự án điều chỉnh còn khá cao. Ông Vinh khẳng định việc chậm tiến độ là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư, tác động tiêu cực đến nền kinh tế (Tư Giang, 2015). Báo cáo tổng hợp công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư qua các năm 2010, 2011, 2012 và 2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên đưa ra số liệu về số dự án chậm tiến độ chiếm khoảng từ 9,59% đến 11,77% số dự án thực hiện trong năm; số dự án phải điều chỉnh (trong đó có điều chỉnh tiến độ và điều chỉnh vốn đầu tư) chiếm khoảng từ 11% đến 16,09% số dự án thực hiện trong kỳ. Số liệu tổng hợp hàng năm cho thấy tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán là vấn đề cần quan tâm trong quản lý dự án đầu tư công. Báo cáo giám sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư công nhưng chưa đề ra các giải pháp khắc phục tình trạng này. Để giải quyết vấn đề, cần thiết phải xác định, phân tích về phương diện học thuật các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công. 3 Lý thuyết quản lý dự án cũng chỉ ra rằng vấn đề vượt dự toán và chậm tiến độ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có nhiều công trình thực nghiệm tiến hành nghiên cứu hai vấn đề này một cách riêng biệt (Azhar và cộng sự, 2008; Han và cộng sự, 2009; Cantarelli và cộng sự, 2012; Hamazh và cộng sự, 2011…); nhưng cũng có nhiều công trình nghiên cứu đồng thời cả hai vấn đề này trong cùng một thang đo (Claire Bordat và cộng sự, 2004; Ramanathan và cộng sự, 2012)… Cho đến nay, chủ đề này ở Việt Nam chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế, nhất là dự án đầu tư công. Lê Hoài Long và cộng sự (2008) nghiên cứu về những nguyên nhân gây ra chậm tiến độ và vượt dự toán trong các dự án đầu tư lớn tại Việt Nam, nhưng đó là các dự án quy mô vốn trên 1 triệu USD nói chung mà không nghiên cứu riêng trường hợp dự án đầu tư công. Dự án đầu tư công có những khác biệt nhất định: khác biệt về vai trò vị thế của chủ đầu tư, khác biệt về cung cách quản lý nguồn vốn, về khung pháp lý mà các bên phải tuân thủ... Do vậy, kết quả nghiên cứu của Lê Hoài Long và cộng sự (2008) cũng chưa bao quát hết các nguyên nhân và giải pháp đặc thù cho trường hợp dự án đầu tư công ở Việt Nam. Đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam” được triển khai nghiên cứu gắn với bối cảnh thực tế của các dự án đầu tư công ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được mong đợi sẽ góp phần vào lý thuyết về nguyên nhân, hiệu ứng vượt dự toán và chậm tiến độ các dự án đầu tư công. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu cơ bản của luận án là khám phá các yếu tố dẫn đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán của dự án đầu tư công ở Việt Nam. Đầu tư công ở Việt ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận án Tiến sĩ Kinh tế Luận án Tiến sĩ Luận án Kinh tế Tiến sĩ Kinh tế Dự án đầu tư công tại Việt Nam Dự toán dự án đầu tư côngGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 424 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 384 1 0 -
174 trang 323 0 0
-
206 trang 301 2 0
-
228 trang 271 0 0
-
32 trang 223 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 218 0 0 -
208 trang 214 0 0
-
27 trang 193 0 0
-
27 trang 185 0 0