Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả điều trị kết hợp kháng thể đơn dòng Nimotuzumab-Hóa xạ trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn lan tràn tại vùng đầu cổ
Số trang: 149
Loại file: pdf
Dung lượng: 2.18 MB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu của luận án là Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ Nimotuzumab - hoá xạ trị đối với ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu cổ giai đoạn III, IVA, IVB tại Bệnh viện K từ 6/2010 đến 6/2013.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả điều trị kết hợp kháng thể đơn dòng Nimotuzumab-Hóa xạ trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn lan tràn tại vùng đầu cổ 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư đầu cổ (UTĐC) là một nhóm bệnh ung thư (UT) xuất phát từnhững vị trí khác nhau ở đường hô hấp và tiêu hoá trên. Những UT này cónhiều điểm chung về sinh bệnh học, dịch tễ, lâm sàng và điều trị. Bệnh chiếm10% trong tổng số các loại UT. Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 41.000 trườnghợp bệnh mới mắc và 12.000 ca chết vì bệnh [1]. Tại Việt Nam UT vòm mũihọng là bệnh hay gặp nhất trong các UTĐC và là một trong mười loại bệnhhay gặp ở nam, còn UT khoang miệng là một trong mười loại UT hay gặp ởnữ [2]. Hầu hết các khối u ác tính vùng đầu cổ xuất phát từ biểu mô bề mặtnên có tới hơn 90% số trường hợp là ung thư biểu mô (UTBM) tế bào vảyhoặc các biến thể của nó như u biểu mô dạng lymphô, UTBM tế bào hìnhthoi, UTBM dạng mụn cơm, UTBM không biệt hoá. Trên toàn thế giới, nguycơ mắc UTBM tế bào vảy ở đầu cổ là khoảng 50.000 trường hợp mỗi năm.Bệnh thường gặp ở độ tuổi trên 50, với tỷ lệ nam/nữ khoảng 2,5/1. Hút thuốc,uống rượu, nhiễm virus HPV, EBV là những yếu tố nguy cơ thường gặp. Với đặc điểm giải phẫu phức tạp, UTĐC rất khó được chẩn đoán sớmdo các triệu chứng thường không đặc hiệu, bệnh nhân (BN) có khi phải điềutrị kháng sinh một thời gian dài với chẩn đoán là viêm tai, viêm họng,…đếnkhi phát hiện ra bệnh thì thường đã ở giai đoạn muộn, rất khó khăn cho điềutrị do khối u xâm lấn rộng và thể trạng suy yếu. Điều trị (ĐT) UTĐC phải tuỳ thuộc vào vị trí giải phẫu và giai đoạnbệnh. Phẫu thuật (PT) và xạ trị (XT) được xem là phương thức điều trị hiệuquả cho giai đoạn I và II ở nhiều vị trí. Đối với những trường hợp tổn thươnglan tràn tại vùng, điều trị đa phương thức thường được chỉ định. Những thửnghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có áp dụng hoá xạ trị (HXT) đồng thời cho 2UTĐC loại tế bào vảy giai đoạn lan rộng tại vùng đều chỉ ra một sự khác biệtcó ý nghĩa về sống thêm so với XT đơn thuần [3],[4],[5]. Từ lợi ích đượcchứng minh, HXT có Cisplatin đã trở thành phương pháp điều trị phổ biến đốivới giai đoạn không mổ được. Hơn 90% UTBM tế bào vảy của đầu cổ có bộc lộ thụ thể yếu tố pháttriển biểu bì (epidermal growth factor receptor - EGFR) [6]. Sự bộc lộ thụ thểnày thường liên quan với một kết quả điều trị và sống thêm kém [7],[8]. Cáctác nhân chặn EGFR làm tăng nhạy cảm của khối u với XT và tăng hiệu quảcủa hoá trị (HT) trên các nghiên cứu tiền lâm sàng [9]. Theo một thử nghiệmlâm sàng phase III, Cetuximab kết hợp với XT đã cải thiện một cách có ýnghĩa tỷ lệ kiểm soát tại vùng và thời gian sống thêm [10]. Với cơ chế tác dụng tương tự Cetuximab, kháng thể đơn dòngNimotuzumab là một IgG1 ở thể khảm người-chuột nên có những nghiên cứucho thấy giảm đáng kể tác dụng không mong muốn trên da so với Cetuximab[11]. Vai trò của Nimotuzumab trong UTBM tế bào vảy vùng đầu cổ đã đượcchứng minh qua các thử nghiệm lâm sàng [12],[13],[14]. Qua đó cho thấyNimotuzumab được dung nạp tốt và cho hiệu quả điều trị cao khi phối hợpvới XT hoặc HXT. Tại Việt Nam, Nimotuzumab đã được bắt đầu áp dụng điều trị từ 2009và đã thu được những kết quả bước đầu. Vì là một thuốc mới nên cho tới naychưa có một nghiên cứu trong nước nào đề cập đến hiệu quả và tính an toàncủa thuốc đối với UTĐC. Để có thêm những đánh giá cụ thể hơn về vai tròđiều trị của Nimotuzumab, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ Nimotuzumab - hoá xạ trị đối với ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu cổ giai đoạn III, IVA, IVB tại Bệnh viện K từ 6/2010 đến 6/2013. 2. Đánh giá tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị trên. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU1.1. Giải phẫu vùng đầu cổ1.1.1. Khoang miệng Khoang miệng là phần đầu của hệ tiêu hoá, chứa đựng nhiều cơ quan cóchức năng quan trọng về tiêu hoá và phát âm như răng, lưỡi, và tiếp nhận dịchtiết của các tuyến nước bọt. Nó thông ở trước với bên ngoài qua khe miệng,thông ở sau với hầu qua eo họng, ngăn cách với hốc mũi ở trên bởi khẩu cái(vòm miệng), và ở dưới là nền miệng (chứa lưỡi và vùng dưới lưỡi), và môi-má ở phía trước-bên. Các cung răng chia khoang miệng thành hai phần: phía trước là tiền đìnhmiệng gồm môi, má và các cung răng ; phía sau là ổ miệng chính.1.1.2. Hầu (họng) Hầu là một ống cơ - sợi đuợc phủ bởi niêm mạc, dài chừng 12-14 cm, đitừ nền sọ tới đầu trên thực quản ở ngang mức đốt sống cổ VI. Hầu nằm trướccột sống cổ, nó mở thông ở phía trước vào ổ mũi, ổ miệng và thanh quản nênđược chia thành ba phần là phần mũi, phần miệng và phần thanh quản. Phần mũi của hầu (tỵ hầu, họng mũi): Phần này nằm ngay sau lỗ mũi sau, trên họng miệng và được ngăn cách với họng miệng bằng khẩu cái mềm trong lúc nuốt. Thành trên và sau là vòm hầu, ứng với vùng niêm mạc phủ mặt dưới của thân xương bướm, phần nền xuơng chẩm và cung trước đốt đội. Phần miệng của hầu (khẩu hầu, họng miệng): Họng miệng thông ở dưới với hạ họng qua eo họng. Eo họng được giới hạn ở trên bởi lưỡi gà và hai cung khẩu cái lưỡi và ở dưới bởi mặt lưng lưỡi. Thành sau của họng miệng nằm trước các đốt sống cổ II, III. Trên 4 mỗi thành bên, họng miệng có hai nếp niêm mạc từ khẩu cái mềm đi xuống gọi là hai cung khẩu cái. Giữa hai cung là một hố chứa hạnh nhân khẩu cái. Phần thanh quản của hầu (thanh hầu, hạ họng): Hạ họng liên tiếp với họng miệng ở trên và thực quản ở dưới, nằm trước các đốt sống cổ III, IV, V, ở trước hạ họng là thanh quản nhưng có thể ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả điều trị kết hợp kháng thể đơn dòng Nimotuzumab-Hóa xạ trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn lan tràn tại vùng đầu cổ 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư đầu cổ (UTĐC) là một nhóm bệnh ung thư (UT) xuất phát từnhững vị trí khác nhau ở đường hô hấp và tiêu hoá trên. Những UT này cónhiều điểm chung về sinh bệnh học, dịch tễ, lâm sàng và điều trị. Bệnh chiếm10% trong tổng số các loại UT. Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 41.000 trườnghợp bệnh mới mắc và 12.000 ca chết vì bệnh [1]. Tại Việt Nam UT vòm mũihọng là bệnh hay gặp nhất trong các UTĐC và là một trong mười loại bệnhhay gặp ở nam, còn UT khoang miệng là một trong mười loại UT hay gặp ởnữ [2]. Hầu hết các khối u ác tính vùng đầu cổ xuất phát từ biểu mô bề mặtnên có tới hơn 90% số trường hợp là ung thư biểu mô (UTBM) tế bào vảyhoặc các biến thể của nó như u biểu mô dạng lymphô, UTBM tế bào hìnhthoi, UTBM dạng mụn cơm, UTBM không biệt hoá. Trên toàn thế giới, nguycơ mắc UTBM tế bào vảy ở đầu cổ là khoảng 50.000 trường hợp mỗi năm.Bệnh thường gặp ở độ tuổi trên 50, với tỷ lệ nam/nữ khoảng 2,5/1. Hút thuốc,uống rượu, nhiễm virus HPV, EBV là những yếu tố nguy cơ thường gặp. Với đặc điểm giải phẫu phức tạp, UTĐC rất khó được chẩn đoán sớmdo các triệu chứng thường không đặc hiệu, bệnh nhân (BN) có khi phải điềutrị kháng sinh một thời gian dài với chẩn đoán là viêm tai, viêm họng,…đếnkhi phát hiện ra bệnh thì thường đã ở giai đoạn muộn, rất khó khăn cho điềutrị do khối u xâm lấn rộng và thể trạng suy yếu. Điều trị (ĐT) UTĐC phải tuỳ thuộc vào vị trí giải phẫu và giai đoạnbệnh. Phẫu thuật (PT) và xạ trị (XT) được xem là phương thức điều trị hiệuquả cho giai đoạn I và II ở nhiều vị trí. Đối với những trường hợp tổn thươnglan tràn tại vùng, điều trị đa phương thức thường được chỉ định. Những thửnghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có áp dụng hoá xạ trị (HXT) đồng thời cho 2UTĐC loại tế bào vảy giai đoạn lan rộng tại vùng đều chỉ ra một sự khác biệtcó ý nghĩa về sống thêm so với XT đơn thuần [3],[4],[5]. Từ lợi ích đượcchứng minh, HXT có Cisplatin đã trở thành phương pháp điều trị phổ biến đốivới giai đoạn không mổ được. Hơn 90% UTBM tế bào vảy của đầu cổ có bộc lộ thụ thể yếu tố pháttriển biểu bì (epidermal growth factor receptor - EGFR) [6]. Sự bộc lộ thụ thểnày thường liên quan với một kết quả điều trị và sống thêm kém [7],[8]. Cáctác nhân chặn EGFR làm tăng nhạy cảm của khối u với XT và tăng hiệu quảcủa hoá trị (HT) trên các nghiên cứu tiền lâm sàng [9]. Theo một thử nghiệmlâm sàng phase III, Cetuximab kết hợp với XT đã cải thiện một cách có ýnghĩa tỷ lệ kiểm soát tại vùng và thời gian sống thêm [10]. Với cơ chế tác dụng tương tự Cetuximab, kháng thể đơn dòngNimotuzumab là một IgG1 ở thể khảm người-chuột nên có những nghiên cứucho thấy giảm đáng kể tác dụng không mong muốn trên da so với Cetuximab[11]. Vai trò của Nimotuzumab trong UTBM tế bào vảy vùng đầu cổ đã đượcchứng minh qua các thử nghiệm lâm sàng [12],[13],[14]. Qua đó cho thấyNimotuzumab được dung nạp tốt và cho hiệu quả điều trị cao khi phối hợpvới XT hoặc HXT. Tại Việt Nam, Nimotuzumab đã được bắt đầu áp dụng điều trị từ 2009và đã thu được những kết quả bước đầu. Vì là một thuốc mới nên cho tới naychưa có một nghiên cứu trong nước nào đề cập đến hiệu quả và tính an toàncủa thuốc đối với UTĐC. Để có thêm những đánh giá cụ thể hơn về vai tròđiều trị của Nimotuzumab, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ Nimotuzumab - hoá xạ trị đối với ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu cổ giai đoạn III, IVA, IVB tại Bệnh viện K từ 6/2010 đến 6/2013. 2. Đánh giá tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị trên. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU1.1. Giải phẫu vùng đầu cổ1.1.1. Khoang miệng Khoang miệng là phần đầu của hệ tiêu hoá, chứa đựng nhiều cơ quan cóchức năng quan trọng về tiêu hoá và phát âm như răng, lưỡi, và tiếp nhận dịchtiết của các tuyến nước bọt. Nó thông ở trước với bên ngoài qua khe miệng,thông ở sau với hầu qua eo họng, ngăn cách với hốc mũi ở trên bởi khẩu cái(vòm miệng), và ở dưới là nền miệng (chứa lưỡi và vùng dưới lưỡi), và môi-má ở phía trước-bên. Các cung răng chia khoang miệng thành hai phần: phía trước là tiền đìnhmiệng gồm môi, má và các cung răng ; phía sau là ổ miệng chính.1.1.2. Hầu (họng) Hầu là một ống cơ - sợi đuợc phủ bởi niêm mạc, dài chừng 12-14 cm, đitừ nền sọ tới đầu trên thực quản ở ngang mức đốt sống cổ VI. Hầu nằm trướccột sống cổ, nó mở thông ở phía trước vào ổ mũi, ổ miệng và thanh quản nênđược chia thành ba phần là phần mũi, phần miệng và phần thanh quản. Phần mũi của hầu (tỵ hầu, họng mũi): Phần này nằm ngay sau lỗ mũi sau, trên họng miệng và được ngăn cách với họng miệng bằng khẩu cái mềm trong lúc nuốt. Thành trên và sau là vòm hầu, ứng với vùng niêm mạc phủ mặt dưới của thân xương bướm, phần nền xuơng chẩm và cung trước đốt đội. Phần miệng của hầu (khẩu hầu, họng miệng): Họng miệng thông ở dưới với hạ họng qua eo họng. Eo họng được giới hạn ở trên bởi lưỡi gà và hai cung khẩu cái lưỡi và ở dưới bởi mặt lưng lưỡi. Thành sau của họng miệng nằm trước các đốt sống cổ II, III. Trên 4 mỗi thành bên, họng miệng có hai nếp niêm mạc từ khẩu cái mềm đi xuống gọi là hai cung khẩu cái. Giữa hai cung là một hố chứa hạnh nhân khẩu cái. Phần thanh quản của hầu (thanh hầu, hạ họng): Hạ họng liên tiếp với họng miệng ở trên và thực quản ở dưới, nằm trước các đốt sống cổ III, IV, V, ở trước hạ họng là thanh quản nhưng có thể ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận án tiến sĩ Luận án tiến sĩ Y học Chuyên ngành Y học Ung thư đầu cổ Giải phẫu vùng đầu cổGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 431 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 385 1 0 -
174 trang 335 0 0
-
206 trang 305 2 0
-
228 trang 272 0 0
-
32 trang 230 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 226 0 0 -
208 trang 219 0 0
-
27 trang 199 0 0
-
27 trang 188 0 0