Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi rút gây bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam
Số trang: 167
Loại file: pdf
Dung lượng: 2.73 MB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu của luận án là Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam. Xác định các căn nguyên vi rút chính gây bệnh Tay Chân Miệng. Phân tích các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng nặng và biến chứng của bệnh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi rút gây bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tay Chân Miệng (TCM) là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người,dễ gây thành dịch. Bệnh do các vi rút đường ruột (enterovirus) gây ra. Biểuhiện lâm sàng nổi bật là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ởcác vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông,gối. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, lây chủ yếu theo đường tiêu hóa,trực tiếp miệng - miệng hoặc phân - miệng. Nguồn lây chính từ nước bọt,phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh. Phần lớn các trường hợp TCM diễn biến tự khỏi, tuy nhiên có thể xuấthiện một số biến chứng nguy hiểm như viêm não - màng não, viêm cơ tim,phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịpthời [1]. Trong các vi rút đường ruột gây bệnh TCM, hai tác nhân được ghinhận thường gặp là Coxsackie virus A16 (CA16) và Enterovirus 71 (EV71).Bên cạnh đó, các vi rút đường ruột khác như một số Coxsackie A, B và cácEchovirus... cũng có thể là căn nguyên gây bệnh. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, bệnh đã phổ biến ở một số nướctrong khu vực và đang trở thành vấn đề y tế công cộng quan trọng tại Châu ÁThái Bình Dương. Tay Chân Miệng đã được ghi nhận ở Trung quốc, HồngCông, Việt Nam, Đài Loan với một tỷ lệ có biến chứng thần kinh và tim mạchkhá cao. Năm 2008, tại Đài Loan xảy ra một vụ dịch với 347 trường hợp nặngcó biến chứng và 14 trường hợp tử vong [2]. Năm 2009, Trung Quốc ghi nhận1.155.525 ca mắc TCM trong đó 13.810 ca nặng và 353 ca tử vong [3]. TạiViệt Nam, bệnh TCM được thông báo gặp quanh năm và phổ biến ở miềnNam. Vụ dịch TCM trong năm 2011 có 113 121 ca mắc và 170 ca tử vong[4]. Nhiều biến chứng cũng đã được thông báo như hôn mê, co giật, phù phổicấp, viêm cơ tim. Cho đến nay, bệnh vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, do 2đó xu hướng chung của thế giới là phát triển vắc xin phòng bệnh, và phát hiệnsớm, điều trị kịp thời để làm giảm tỷ lệ tử vong. Do mức độ ngày càng lanrộng của bệnh, một số nghiên cứu về TCM đã được tiến hành ở cả 2 miềnNam Bắc. Một nghiên cứu về TCM trong vụ dịch năm 2005 tại miền NamViệt Nam cho thấy 2 tác nhân gây bệnh chính là EV71 và CA16, trong đó cácdưới nhóm EV71 gồm C1, C4 và C5 [5]. Nghiên cứu khác được tiến hành tạimiền Bắc Việt Nam trong vụ dịch năm 2008 đã ghi nhận sự xuất hiện của CA10 trong số các tác nhân gây bệnh [6]. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã được báocáo tại Việt Nam chỉ được thực hiện tại một vài tỉnh, thành và trong một thờigian ngắn do đó chưa có tính đại diện cho cả nước. Hơn nữa, các kết quảnghiên cứu mới ở mức độ phát hiện bệnh, chưa đi sâu phân tích các yếu tốtiên lượng bệnh cũng như đặc điểm gây bệnh của các chủng vi rút , điều đódẫn đến những hạn chế trong việc phòng chống dịch tại Việt Nam. Để có mộtbức tranh toàn diện về bệnh TCM, về các căn nguyên gây bệnh đang phổ biếntại Việt Nam cũng như để có một đánh giá đầy đủ về mặt lâm sàng, các biếnchứng thường gặp nhằm góp phần cho công tác phòng bệnh và tìm ra các giảipháp khống chế tử vong của bệnh TCM, chúng tôi tiến hành đề tài“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi rút gâybệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam”. Đề tài có 3 mục tiêu chính: 1. Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam. 2. Xác định các căn nguyên vi rút chính gây bệnh Tay Chân Miệng. 3. Phân tích các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng nặng và biến chứng của bệnh. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN1.1. Tình hình bệnh Tay Chân Miệng1.1.1. Lịch sử bệnh Tay Chân Miệng trên thế giới Bệnh được mô tả lần đầu tại Toronto-Canada năm 1957 [7]. Đến năm1959 trong vụ dịch tại Birmingham-Anh, bệnh đã được đặt tên Tay ChânMiệng. Cũng tại vụ dịch này, Coxsakie A16 đã được xác định là căn nguyêngây bệnh. Cho đến năm 1974, căn nguyên EV71 đã được Schmidt và cộng sựmô tả dựa trên 20 bệnh nhân bị bệnh TCM có biến chứng thần kinh trungương, trong đó có 1 ca tử vong tại California (Mỹ) vào giữa những năm 1969và 1972. Sau đó, nhiều vụ dịch bùng phát được ghi nhận tại Mỹ (1972- 1977và 1987), Úc (1972- 1973 và 1986), Thụy Điển (1973), Nhật Bản (1973 -1978), Bun-ga-ri (1975), Hung-ga-ri (1978), Pháp (1979), Hồng Công (1985).Trong các vụ dịch trên, EV71 là căn nguyên gây biểu hiện lâm sàng đa dạng,bao gồm viêm màng não vô khuẩn, viêm não, liệt, bệnh phổi cấp tính và viêmcơ tim [3]. Cùng với Coxsackie A16, EV71 là căn nguyên chính gây bệnhTCM [8]. Bắt đầu từ cuối những năm 1990, các vụ dịch TCM đã lan rộng ởkhu vực châu Á - Thái Bình Dương với một tỷ lệ lớn có biểu hiện bệnh lýthần kinh và tim mạch.1.1.2. Tình hình bệnh Tay Chân Miệng trên thế giới.a. Tình hình bệnh TCM tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tại Trung Quốc, trường hợp nhiễm bệnh Tay Chân Miệng được pháthiện đầu tiên vào năm 1981 tại Thượng Hải. Sau đó dịch đã lan sang các tỉnhthành khác như Bắc Kinh, Quảng Đông. Theo báo cáo tại nước này, từ tháng05 năm 2008 đến tháng 4 năm 2009 đã ghi nhận 765.220 ca mắc, trong đó 489,1% là trẻ em dưới 5 tuổi, 4067 ca nặng và 205 ca tử vong. Trong số 2,2%số ca mắc được làm xét nghiệm xác định vi rút, EV71 chiếm 56,1%. Tỷ lệdương tính với EV 71 lần lượt là 52,6%, 83,5% và 96,1% trong số các ca nhẹ,nặng và tử vong [9]. Năm 2011, Trung Quốc ghi nhận 1.217.768 trường hợpmắc (bằng 70% so với năm 2010 là 1.567.254 trường hợp) trong đó 399trường hợp tử vong [10]. Số mắc Tháng Biểu đồ 1.1. Số ca mắc bệnh Tay Chân Miệng tại Trung Quốc đại lục từ 2012 đến 2014 (Nguồn: WPRO 2014) [11].Số mắc ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi rút gây bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tay Chân Miệng (TCM) là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người,dễ gây thành dịch. Bệnh do các vi rút đường ruột (enterovirus) gây ra. Biểuhiện lâm sàng nổi bật là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ởcác vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông,gối. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, lây chủ yếu theo đường tiêu hóa,trực tiếp miệng - miệng hoặc phân - miệng. Nguồn lây chính từ nước bọt,phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh. Phần lớn các trường hợp TCM diễn biến tự khỏi, tuy nhiên có thể xuấthiện một số biến chứng nguy hiểm như viêm não - màng não, viêm cơ tim,phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịpthời [1]. Trong các vi rút đường ruột gây bệnh TCM, hai tác nhân được ghinhận thường gặp là Coxsackie virus A16 (CA16) và Enterovirus 71 (EV71).Bên cạnh đó, các vi rút đường ruột khác như một số Coxsackie A, B và cácEchovirus... cũng có thể là căn nguyên gây bệnh. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, bệnh đã phổ biến ở một số nướctrong khu vực và đang trở thành vấn đề y tế công cộng quan trọng tại Châu ÁThái Bình Dương. Tay Chân Miệng đã được ghi nhận ở Trung quốc, HồngCông, Việt Nam, Đài Loan với một tỷ lệ có biến chứng thần kinh và tim mạchkhá cao. Năm 2008, tại Đài Loan xảy ra một vụ dịch với 347 trường hợp nặngcó biến chứng và 14 trường hợp tử vong [2]. Năm 2009, Trung Quốc ghi nhận1.155.525 ca mắc TCM trong đó 13.810 ca nặng và 353 ca tử vong [3]. TạiViệt Nam, bệnh TCM được thông báo gặp quanh năm và phổ biến ở miềnNam. Vụ dịch TCM trong năm 2011 có 113 121 ca mắc và 170 ca tử vong[4]. Nhiều biến chứng cũng đã được thông báo như hôn mê, co giật, phù phổicấp, viêm cơ tim. Cho đến nay, bệnh vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, do 2đó xu hướng chung của thế giới là phát triển vắc xin phòng bệnh, và phát hiệnsớm, điều trị kịp thời để làm giảm tỷ lệ tử vong. Do mức độ ngày càng lanrộng của bệnh, một số nghiên cứu về TCM đã được tiến hành ở cả 2 miềnNam Bắc. Một nghiên cứu về TCM trong vụ dịch năm 2005 tại miền NamViệt Nam cho thấy 2 tác nhân gây bệnh chính là EV71 và CA16, trong đó cácdưới nhóm EV71 gồm C1, C4 và C5 [5]. Nghiên cứu khác được tiến hành tạimiền Bắc Việt Nam trong vụ dịch năm 2008 đã ghi nhận sự xuất hiện của CA10 trong số các tác nhân gây bệnh [6]. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã được báocáo tại Việt Nam chỉ được thực hiện tại một vài tỉnh, thành và trong một thờigian ngắn do đó chưa có tính đại diện cho cả nước. Hơn nữa, các kết quảnghiên cứu mới ở mức độ phát hiện bệnh, chưa đi sâu phân tích các yếu tốtiên lượng bệnh cũng như đặc điểm gây bệnh của các chủng vi rút , điều đódẫn đến những hạn chế trong việc phòng chống dịch tại Việt Nam. Để có mộtbức tranh toàn diện về bệnh TCM, về các căn nguyên gây bệnh đang phổ biếntại Việt Nam cũng như để có một đánh giá đầy đủ về mặt lâm sàng, các biếnchứng thường gặp nhằm góp phần cho công tác phòng bệnh và tìm ra các giảipháp khống chế tử vong của bệnh TCM, chúng tôi tiến hành đề tài“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi rút gâybệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam”. Đề tài có 3 mục tiêu chính: 1. Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam. 2. Xác định các căn nguyên vi rút chính gây bệnh Tay Chân Miệng. 3. Phân tích các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng nặng và biến chứng của bệnh. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN1.1. Tình hình bệnh Tay Chân Miệng1.1.1. Lịch sử bệnh Tay Chân Miệng trên thế giới Bệnh được mô tả lần đầu tại Toronto-Canada năm 1957 [7]. Đến năm1959 trong vụ dịch tại Birmingham-Anh, bệnh đã được đặt tên Tay ChânMiệng. Cũng tại vụ dịch này, Coxsakie A16 đã được xác định là căn nguyêngây bệnh. Cho đến năm 1974, căn nguyên EV71 đã được Schmidt và cộng sựmô tả dựa trên 20 bệnh nhân bị bệnh TCM có biến chứng thần kinh trungương, trong đó có 1 ca tử vong tại California (Mỹ) vào giữa những năm 1969và 1972. Sau đó, nhiều vụ dịch bùng phát được ghi nhận tại Mỹ (1972- 1977và 1987), Úc (1972- 1973 và 1986), Thụy Điển (1973), Nhật Bản (1973 -1978), Bun-ga-ri (1975), Hung-ga-ri (1978), Pháp (1979), Hồng Công (1985).Trong các vụ dịch trên, EV71 là căn nguyên gây biểu hiện lâm sàng đa dạng,bao gồm viêm màng não vô khuẩn, viêm não, liệt, bệnh phổi cấp tính và viêmcơ tim [3]. Cùng với Coxsackie A16, EV71 là căn nguyên chính gây bệnhTCM [8]. Bắt đầu từ cuối những năm 1990, các vụ dịch TCM đã lan rộng ởkhu vực châu Á - Thái Bình Dương với một tỷ lệ lớn có biểu hiện bệnh lýthần kinh và tim mạch.1.1.2. Tình hình bệnh Tay Chân Miệng trên thế giới.a. Tình hình bệnh TCM tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tại Trung Quốc, trường hợp nhiễm bệnh Tay Chân Miệng được pháthiện đầu tiên vào năm 1981 tại Thượng Hải. Sau đó dịch đã lan sang các tỉnhthành khác như Bắc Kinh, Quảng Đông. Theo báo cáo tại nước này, từ tháng05 năm 2008 đến tháng 4 năm 2009 đã ghi nhận 765.220 ca mắc, trong đó 489,1% là trẻ em dưới 5 tuổi, 4067 ca nặng và 205 ca tử vong. Trong số 2,2%số ca mắc được làm xét nghiệm xác định vi rút, EV71 chiếm 56,1%. Tỷ lệdương tính với EV 71 lần lượt là 52,6%, 83,5% và 96,1% trong số các ca nhẹ,nặng và tử vong [9]. Năm 2011, Trung Quốc ghi nhận 1.217.768 trường hợpmắc (bằng 70% so với năm 2010 là 1.567.254 trường hợp) trong đó 399trường hợp tử vong [10]. Số mắc Tháng Biểu đồ 1.1. Số ca mắc bệnh Tay Chân Miệng tại Trung Quốc đại lục từ 2012 đến 2014 (Nguồn: WPRO 2014) [11].Số mắc ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận án tiến sĩ Luận án tiến sĩ Y học Chuyên ngành Y học Tay Chân Miệng Đặc điểm bệnh tay chân miệngGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 432 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 385 1 0 -
174 trang 339 0 0
-
206 trang 306 2 0
-
228 trang 272 0 0
-
32 trang 231 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 227 0 0 -
208 trang 221 0 0
-
27 trang 200 0 0
-
27 trang 190 0 0