Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính trong chẩn đoán các tổn thương dạng u ở phổi
Số trang: 165
Loại file: pdf
Dung lượng: 3.07 MB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là Phân loại giai đoạn TNM theo phân loại của UICC/AJCC (Union Internationale Contre le Cancer/American Joint Commission on Cancer) năm 2009 và típ mô bệnh học theo tiêu chuẩn của WHO 2004 trước và sau mổ của bệnh nhân ung thư phổi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính trong chẩn đoán các tổn thương dạng u ở phổi 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Các tổn thương dạng u ở phổi là những đám hoặc nốt mờ được pháthiện trên phim Xquang phổi hay trên phim cắt lớp vi tính (CLVT) lồng ngực.Có hơn 80 loại các tổn thương dạng u ở phổi, bản chất các tổn thương này cóthể lành tính hoặc ung thư phế quản hoặc ung thư di căn từ nơi khác đến [1]. Ung thư phế quản là bệnh có tỉ lệ mắc và tử vong đứng hàng đầu trongcác bệnh ung thư trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh có tỉ lệ mắc cao ởcả hai giới [2]. Phẫu thuật là lựa chọn điều trị đầu tay cho những trường hợpgiai đoạn sớm, bên cạnh đó, nhiều tổn thương lành tính ở phổi (như u môthừa, u mỡ…) đôi khi không cần can thiệp. Do đó việc phát hiện và chẩn đoánsớm và chính xác rất quan trọng. Có nhiều phương pháp để chẩn đoán bản chất các khối u ở phổi: các kỹthuật chẩn đoán hình ảnh như chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ, chụpPET/CT…và các kỹ thuật xâm nhập chẩn đoán như nội soi phế quản (NSPQ),NSPQ siêu âm, nội soi lồng ngực, sinh thiết xuyên thành ngực (STXTN) dướihướng dẫn của phim Xquang phổi, màn huỳnh quang, chụp CLVT, chụpCLVT huỳnh quang,…Trong đó chỉ các kỹ thuật xâm nhập mới có thể lấyđược bệnh phẩm để cung cấp tiêu chuẩn vàng cho chẩn đoán bản chất khối u.Để chẩn đoán các tổn thương ở phổi, NSPQ và STXTN được sử dụng nhiềunhất. Nối soi phế quản giúp tiếp cận các khối u trung tâm, STXTN giúp tiếpcận các khối ngoại vi mà nội soi phế quản không tiếp cận được. Kỹ thuật STXTN được thực hiện từ cuối thế kỷ XIX, lúc đầu người tasử dụng kim lớn sinh thiết dưới hướng dẫn của phim phổi hoặc chiếu Xquang.Kỹ thuật này cho hiệu quả thấp tỉ lệ tai biến cao. Sau đó kỹ thuật STXTNđược phát triển dần đến nay, người ta sử dụng kim sinh thiết cắt dưới hướng 2dẫn của chụp CLVT để lấy bệnh phẩm u phổi. Kỹ thuật cho phép lấy đượcbệnh phẩm mô bệnh mà tỉ lệ tai biến không quá cao [3]. Kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT giúp thầy thuốc lấyđược bệnh phẩm các tổn thương ở sâu, kích thước nhỏ, vị trí nguy hiểm (nhưở trung thất, sát tim và các mạch máu lớn) với độ an toàn, chính xác cao. Bêncạnh đó đo tỷ trọng trước sinh thiết, giúp thầy thuốc tránh được vùng hoại tử,hoặc vùng phổi xẹp, nên hiệu quả sinh thiết được cải thiện. Việc chụp kiểmtra ngay sau sinh thiết giúp phát hiện và xử trí ngay các tai biến nếu có. Ở nước ta kỹ thuật sinh thiết hút kim nhỏ được thực hiện từ những nămđầu thập kỷ 80 [4], STXTN bằng kim Tru-cut dựa trên Xquang phổi thẳngnghiêng từ những năm 1990 [5]. Năm 2001 Tạ Bá Thắng có báo cáo về sinhthiết phổi hút xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT [6]. Trung tâmHô hấp bệnh viện Bạch Mai đã tiến hành STXTN dưới hướng dẫn của chụpCLVT bằng kim Tru-cut từ năm 2002. Đến nay kỹ thuật này đã được triểnkhai ở nhiều bệnh viện trên cả nước. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu sâu kiểmchứng kết quả sinh thiết. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nàynhằm mục tiêu sau:1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các tổn thương dạng u ở phổi.2. Nghiên cứu giá trị chẩn đoán của kỹ thuật STXTN cắt bằng kim Tru-cut dưới hướng dẫn của chụp CLVT3. Phân loại giai đoạn TNM theo phân loại của UICC/AJCC năm 2009 và típ mô bệnh học theo tiêu chuẩn của WHO 2004 ở bệnh nhân ung thư phổi trước và sau mổ. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN1.1. Tổng quan về các tổn thương dạng u ở phổi1.1.1. Các loại tổn thương dạng u ở phổi Các tổn thương dạng u ở phổi luôn được các nhà lâm sàng quan tâm.Các tổn thương dạng u có thể xếp loại là nốt hay khối tùy theo kích thước củatổn thương. Nốt đơn độc ở phổi là những tổn thương đơn độc có đường kínhnhỏ hơn 3cm được bao bọc xung quanh bởi nhu mô phổi lành không có xẹpphổi hay hạch to. Những tổn thương có kích thước lớn hơn được gọi là cáckhối ở phổi. Những khối ở phổi có nguy cơ ác tính cao cần tích cực chẩn đoánbản chất tổn thương và xem xét khả năng phẫu thuật [1]. Các nốt đơn độc ở phổi thường không có triệu chứng, vô tình phát hiệnra nhờ các lý do khác. Một số ít trường hợp có triệu chứng tại chỗ (ho hoặc homáu), hay có các triệu chứng toàn thân (mệt mỏi, gầy sút cân). Bản chất cácnốt đơn độc ở phổi rất khác nhau, có thể lành tính hoặc ác tính. Với các tổnthương lành tính gặp đến 80% là các u hạt do nhiễm trùng, 10% u mỡ và 10%còn lại là các tổn thương hiếm khác như u hạt không do nhiễm trùng và các ulành tính khác. Ở bệnh nhân dưới 35 tuổi, các nốt đơn độc phần lớn lành tính.Nguy cơ mắc ung thư tăng dần cho đến tuổi 65. Ở tuổi 65 hơn 2/3 các trườnghợp nốt đơn độc ở phổi có nguy cơ ác tính. Hầu hết các trường hợp ác tính làun ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giá trị của sinh thiết cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính trong chẩn đoán các tổn thương dạng u ở phổi 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Các tổn thương dạng u ở phổi là những đám hoặc nốt mờ được pháthiện trên phim Xquang phổi hay trên phim cắt lớp vi tính (CLVT) lồng ngực.Có hơn 80 loại các tổn thương dạng u ở phổi, bản chất các tổn thương này cóthể lành tính hoặc ung thư phế quản hoặc ung thư di căn từ nơi khác đến [1]. Ung thư phế quản là bệnh có tỉ lệ mắc và tử vong đứng hàng đầu trongcác bệnh ung thư trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh có tỉ lệ mắc cao ởcả hai giới [2]. Phẫu thuật là lựa chọn điều trị đầu tay cho những trường hợpgiai đoạn sớm, bên cạnh đó, nhiều tổn thương lành tính ở phổi (như u môthừa, u mỡ…) đôi khi không cần can thiệp. Do đó việc phát hiện và chẩn đoánsớm và chính xác rất quan trọng. Có nhiều phương pháp để chẩn đoán bản chất các khối u ở phổi: các kỹthuật chẩn đoán hình ảnh như chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ, chụpPET/CT…và các kỹ thuật xâm nhập chẩn đoán như nội soi phế quản (NSPQ),NSPQ siêu âm, nội soi lồng ngực, sinh thiết xuyên thành ngực (STXTN) dướihướng dẫn của phim Xquang phổi, màn huỳnh quang, chụp CLVT, chụpCLVT huỳnh quang,…Trong đó chỉ các kỹ thuật xâm nhập mới có thể lấyđược bệnh phẩm để cung cấp tiêu chuẩn vàng cho chẩn đoán bản chất khối u.Để chẩn đoán các tổn thương ở phổi, NSPQ và STXTN được sử dụng nhiềunhất. Nối soi phế quản giúp tiếp cận các khối u trung tâm, STXTN giúp tiếpcận các khối ngoại vi mà nội soi phế quản không tiếp cận được. Kỹ thuật STXTN được thực hiện từ cuối thế kỷ XIX, lúc đầu người tasử dụng kim lớn sinh thiết dưới hướng dẫn của phim phổi hoặc chiếu Xquang.Kỹ thuật này cho hiệu quả thấp tỉ lệ tai biến cao. Sau đó kỹ thuật STXTNđược phát triển dần đến nay, người ta sử dụng kim sinh thiết cắt dưới hướng 2dẫn của chụp CLVT để lấy bệnh phẩm u phổi. Kỹ thuật cho phép lấy đượcbệnh phẩm mô bệnh mà tỉ lệ tai biến không quá cao [3]. Kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT giúp thầy thuốc lấyđược bệnh phẩm các tổn thương ở sâu, kích thước nhỏ, vị trí nguy hiểm (nhưở trung thất, sát tim và các mạch máu lớn) với độ an toàn, chính xác cao. Bêncạnh đó đo tỷ trọng trước sinh thiết, giúp thầy thuốc tránh được vùng hoại tử,hoặc vùng phổi xẹp, nên hiệu quả sinh thiết được cải thiện. Việc chụp kiểmtra ngay sau sinh thiết giúp phát hiện và xử trí ngay các tai biến nếu có. Ở nước ta kỹ thuật sinh thiết hút kim nhỏ được thực hiện từ những nămđầu thập kỷ 80 [4], STXTN bằng kim Tru-cut dựa trên Xquang phổi thẳngnghiêng từ những năm 1990 [5]. Năm 2001 Tạ Bá Thắng có báo cáo về sinhthiết phổi hút xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT [6]. Trung tâmHô hấp bệnh viện Bạch Mai đã tiến hành STXTN dưới hướng dẫn của chụpCLVT bằng kim Tru-cut từ năm 2002. Đến nay kỹ thuật này đã được triểnkhai ở nhiều bệnh viện trên cả nước. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu sâu kiểmchứng kết quả sinh thiết. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nàynhằm mục tiêu sau:1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các tổn thương dạng u ở phổi.2. Nghiên cứu giá trị chẩn đoán của kỹ thuật STXTN cắt bằng kim Tru-cut dưới hướng dẫn của chụp CLVT3. Phân loại giai đoạn TNM theo phân loại của UICC/AJCC năm 2009 và típ mô bệnh học theo tiêu chuẩn của WHO 2004 ở bệnh nhân ung thư phổi trước và sau mổ. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN1.1. Tổng quan về các tổn thương dạng u ở phổi1.1.1. Các loại tổn thương dạng u ở phổi Các tổn thương dạng u ở phổi luôn được các nhà lâm sàng quan tâm.Các tổn thương dạng u có thể xếp loại là nốt hay khối tùy theo kích thước củatổn thương. Nốt đơn độc ở phổi là những tổn thương đơn độc có đường kínhnhỏ hơn 3cm được bao bọc xung quanh bởi nhu mô phổi lành không có xẹpphổi hay hạch to. Những tổn thương có kích thước lớn hơn được gọi là cáckhối ở phổi. Những khối ở phổi có nguy cơ ác tính cao cần tích cực chẩn đoánbản chất tổn thương và xem xét khả năng phẫu thuật [1]. Các nốt đơn độc ở phổi thường không có triệu chứng, vô tình phát hiệnra nhờ các lý do khác. Một số ít trường hợp có triệu chứng tại chỗ (ho hoặc homáu), hay có các triệu chứng toàn thân (mệt mỏi, gầy sút cân). Bản chất cácnốt đơn độc ở phổi rất khác nhau, có thể lành tính hoặc ác tính. Với các tổnthương lành tính gặp đến 80% là các u hạt do nhiễm trùng, 10% u mỡ và 10%còn lại là các tổn thương hiếm khác như u hạt không do nhiễm trùng và các ulành tính khác. Ở bệnh nhân dưới 35 tuổi, các nốt đơn độc phần lớn lành tính.Nguy cơ mắc ung thư tăng dần cho đến tuổi 65. Ở tuổi 65 hơn 2/3 các trườnghợp nốt đơn độc ở phổi có nguy cơ ác tính. Hầu hết các trường hợp ác tính làun ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận án tiến sĩ Luận án tiến sĩ Y học Chuyên ngành Y học Các loại tổn thương dạng u ở phổi Ung thư phổiGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 410 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 375 1 0 -
206 trang 298 2 0
-
174 trang 294 0 0
-
228 trang 258 0 0
-
32 trang 208 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 206 0 0 -
208 trang 195 0 0
-
9 trang 192 0 0
-
27 trang 177 0 0