Danh mục

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu

Số trang: 159      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.50 MB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm Nhận xét phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu. Đánh giá kết quả điều trị u sọ hầu bằng phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu 1 ĐẶT VẤN ĐỀ U sọ hầu (Craniopharyngiomas) được định nghĩa bởi Tổ chức y tế thếgiới (WHO) là một loại u biểu mô vảy lành tính ít gặp, xếp loại độ I, pháttriển chậm, nằm phần lớn ở vùng hố yên và trên yên, quanh tuyến yên vàcuống tuyến yên [1],[2]. U sọ hầu là loại u hiếm gặp, thấy ở cả trẻ em và người trưởng thành,chiếm 3-4% u nội sọ. Tỷ lệ mới mắc được phát hiện 0,5-2 ca/1 triệu dân/ năm,tỷ lệ gặp ở hai giới tương đương nhau [3]. U sọ hầu có nguồn gốc từ túi Rathke, cấu trúc thường bao gồm phầnđặc, có các mảnh canxi và nang dịch nhày chứa tinh thể cholesterol. Chẩnđoán dựa vào lâm sàng, xét nghiệm nội tiết và hình ảnh phim chụp cắt lớp vitính, cộng hưởng từ sọ não. Phương pháp điều trị chủ yếu vẫn là phẫu thuật, có thể kết hợp cácphương pháp hỗ trợ khác như xạ trị, hoá trị với điều trị nội tiết. Đây là khối ulành tính nên để việc điều trị có kết quả tốt phải lấy bỏ hết khối u mà ít làmtổn thương tuyến yên lành, cuống tuyến yên và các cấu trúc quan trọng xungquanh. Nhưng bản chất của khối u thường dính chặt và xâm lấn, len lỏi vàocác cấu trúc quan trọng này nên việc cắt bỏ hết khối u là điều rất khó khăn[4],[5]. Chọn đường mổ và phương pháp mổ từ lâu được các nhà phẫu thuậtviên thần kinh bàn bạc và đang còn nhiều tranh cãi. Có nhiều đường mổ nhưqua đường mở sọ: đường mổ dưới trán, trán 2 bên, trán- thái dương, qua nãothất và đường mổ qua xoang bướm, đặc biệt áp dụng nội soi vào đường mổqua mũi xoang bướm được nhiều tác giả nghiên cứu ứng dụng gần đây cho tỷlệ thành công cao và biến chứng thấp. Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm cùng với những phươngpháp phẫu thuật ít xâm lấn khác trong điều trị u sọ hầu là những tiến bộ và xu 2thế trong phẫu thuật thần kinh hiện đại. Những tiến bộ mới trong y học vànhững hiểu biết sâu sắc hơn về giải phẫu nền sọ, cải thiện được hình ảnh nhìnqua nội soi, ứng dụng hệ thống định vị Navigation, cũng như rất nhiều cácphương tiện hỗ trợ hình ảnh hiện đại, cùng với nhiều loại vật liệu cầm máutrong mổ cho phép các chuyên gia phẫu thuật thần kinh giải quyết tốt hơnnhững tổn thương vùng trên yên [6],[7],[8],[9],[10]. Nguy cơ rò dịch não tuỷngày nay đã được nghiên cứu điều trị, sử dụng các vật liệu chống rò trong mổđã được áp dụng làm cho tỷ lệ bị rò dịch não tuỷ đã được giảm đi rất nhiều[11],[12]. Tại Việt Nam, phẫu thuật u sọ hầu trước đây được thực hiện chủ yếu tạimột số trung tâm lớn, thường qua đường mở nắp sọ. Việc ứng dụng phẫuthuật nội soi qua đường xoang bướm để lấy u sọ hầu chưa được triển khai ứngdụng nhiều và chưa có nghiên cứu đầy đủ, lâu dài về phương pháp điều trịnày. Chính vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu: 1. Nhận xét phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm trong điều trị u sọ hầu. 2. Đánh giá kết quả điều trị u sọ hầu bằng phẫu thuật mổ nội soi qua mũi xoang bướm. 3 Chương 1 TỔNG QUAN1.1. Lịch sử chẩn đoán và điều trị u sọ hầu1.1.1. Trên thế giới Năm 1857, Friedrich Albert von Zenker, nhà giải phẫu bệnh người Đứclà người đầu tiên mô tả về u sọ hầu. Tác giả mô tả khối u này là u biểu môvảy phát triển ở vùng yên và trên yên [3]. Năm 1904, Sakob Erdheim là người mô tả chính xác về tính chất giảiphẫu và đặc điểm u sọ hầu. Năm1909, A. E. Halstead ở Chicago là người đầu tiên phẫu thuật thànhcông lấy bỏ u sọ hầu. Năm1932, Harvey Cushing thông báo mổ 92 ca u sọ hầu, tỷ lệ chết14,6%, trong số đó có 14 ca phẫu thuật qua đường xoang bướm. Sau đó sựphát triển các nghiên cứu về u sọ hầu được tiến hành sâu hơn [3]. Phẫu thuật qua đường xoang bướm được phổ biến rộng rãi từ năm 1965bởi Gerrard Guiot và Jules Hardy cùng với kính vi phẫu và các dụng cụ viphẫu điều trị an toàn với các u tuyến yên, u sọ hầu và u vùng hố yên[8],Năm 1980, Laws và cộng sự thông báo mổ một số lượng lớn u sọ hầu quaxoang bướm, đường xoang bướm mở rộng. Từ đó nhiều trung tâm phẫu thuậtthần kinh trên thế giới đã ứng dụng các kỹ thuật mổ u sọ hầu qua đườngxoang bướm mở rộng bằng kính vi phẫu hoặc nội soi.1.1.2. Việt Nam Vũ Tự Huỳnh và cộng sự thông báo năm 1991- 1995 tại bệnh viện ViệtĐức, u sọ hầu gặp bệnh nhân dưới 20 tuổi chiếm 70% [13]. Lê Thanh Quỳnh thông báo 32 ca u sọ hầu tại bệnh viện Việt Đứcnăm 2004 [14]. 4 Cho đến nay, phẫu thuật u sọ hầu chủ yếu được thực hiện quađường mở nắp sọ ở 2 trung tâm lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh[15],[16],[17],[18]. Nguyễn Hữu Duy, Trần Minh Tường thông báo 12 ca nội soi dẫn lưunang qua đường xoang bướm tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2007 [19]. Tại bệnh viện Việt Đức, phẫu thuật qua xoang bướm được thực hiện từnăm 2000 với các u tuyến yên, u sọ hầu và u nền sọ khác bằng kính vi phẫu.Phẫu thuật nội soi qua xoang bướm chủ yếu được sử dụng để điều trị cho khốiu tuyến yên được thực hiện từ năm 2011 và đến nay đã thành thường quy.Phẫu thuật u sọ hầu vẫn được thực hiện thường quy qua đường mở sọ. Từnăm 2012 đã thực hiện một số ca lấy u sọ hầu qua nội soi mũi xoang bướmthành công [20].1.1.3. Sự phát triển phẫu thuật nội soi điều trị u sọ hầu qua đường mũixoang bướm. Đường mổ qua xoang bướm đã được Guiot và Jules Hardy (1960) ứngdụng để phẫu thuật cho những khối u tuyến yên xâm lấn vào xoang bướm . Năm 1987, Weiss đã sử dụng đường mổ xoang bướm mở rộng để phẫuthuật cho những khối u vùng hố yên như u màng não củ yên, u sọ hầu. Banđầu, phẫu thuật được sử dụng kính hiển vi [21], [22]. Sau đó, phương phápphẫu thuật nội soi đã tạo ra sự đổi mới đáng chú ý trong kiểm soát các cấutrúc giải phẫu một cách rõ ràng hơn [23],[24],[10], ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: