Danh mục

LUẬN VĂN: Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc giai đoạn 1980-1990 - Một số kinh nghiệm với Việt Nam

Số trang: 34      Loại file: pdf      Dung lượng: 519.64 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong những năm qua, Hàn Quốc được các nhà phân tích kinh tế trên thế giới thừa nhận là một điển hình của một nền kinh tế phát triển thành công, đặc biệt là từ khi xuất phát từ đặc thù địa lý, Hàn Quốc là một quốc gia không được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên. Từ một nước công nghiệp nghèo, Hàn Quốc mau chóng trở thành một nước công nghiệp mới (NICs/NIEs). Đến tháng 10/1996, Hàn quốc được chính thức kết nạp làm thành viên thứ 25 của OECD. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc giai đoạn 1980-1990 - Một số kinh nghiệm với Việt Nam LUẬN VĂN:Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc giai đoạn 1980-1990 - Một số kinh nghiệm với Việt Nam Mở đầu Trong nh ững năm qua, Hàn Quốc được các nhà phân tích kinh tế trên thế giới thừanhận là một điển hình của một nền kinh tế phát triển thành công, đặc biệt là từ khi xuấtphát từ đặc thù địa lý, Hàn Quốc là một quốc gia không được ưu đãi về tài nguyên thiênnhiên. Từ một nước công nghiệp nghèo, Hàn Quốc mau chóng trở thành một nước côngnghiệp mới (NICs/NIEs). Đến tháng 10/1996, Hàn quốc được chính thức kết nạp làmthành viên thứ 25 của OECD. Trở thành một n ước công nghiệp mới và là một trong 4 con rồng Châu á, rồi thamgia vào OECD, Hàn qu ốc có một quá trình công nghiệp hóa được rút ngắn một cách tối đa(chỉ còn 30 năm) so với Mỹ, các nước EU và Nhật Bản do có đ ược chiến lược công nghiệphóa đúng đắn, tận dụng được lợi thế của “người đi sau”, tiếp thu được kinh nghiệm của cảba nhóm nước phát triển trên. Trong 30 năm công nghiệp hóa của Hàn Quốc, giai đoạn 1980 -1990 giữ một vai trònổi bật, được các nhà kinh tế coi là giai đo ạn “cất cánh lần thứ hai” của nền công nghiệpHàn Quốc, giúp Hàn Quốc nhanh chóng hoàn thành quá trình công nghiệp hóa. Trong giaiđoạn này, tốc độ tăng GDP của Hàn Quốc được coi là cao nhất thế giới, bình quân từ 8%-10%/ năm. Đặc biệt là năm 1988 là năm có Thế Vận Hội Olympic lần thứ 24 tổ chức tạiSeoul, tốc độ tăng trưởng của GDP đã lên tới mức kỷ lục, h ơn 40% so với năm trước. Việt Nam và Hàn Quốc là hai nước Châu á có nhiều nét tương đồng về lịch sử, địalý và văn hóa, cơ sở kinh tế xã hội. Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới (từ 1986) ViệtNam đã đạt được một số thành tựu, tuy nhiên nếu xét theo các tiêu chuẩn quốc tế thì ViệtNam vẫn là một quốc gia kém phát triển. Để có thể vươn lên đạt trình độ ngang hàng vớicác quốc gia trong khu vực, Việt Nam tất yếu phải lựa chọn con đường CNH-HĐH. Đâythực sự là một thách thức đối với chúng ta. Vì thế, người viết muốn tìm hiểu về “CNH ởHàn Quốc giai đoạn 1980 -1990” từ đó rút ra “Một số kinh nghiệm với Việt Nam”. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; bài tiểu luận đ ượcchia thành ba phần: *Phần I:Tình hình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc trước năm1980. *Phần II :Quá trình thực hiện chiến lược CNH hỗn hợp. *Phần III:Một số kinh nghiệm từ chiến lược công nghiệp hóacủa Hàn Quốc đối với Việt Nam.Phần I: Tình hình CNH ở Hàn Quốc trước năm 1980:1. Chiến lược CNH: Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã xuất hiện nhiều mô hình khác nhau về chiếnlược CNH, trong đó rõ nét nhất là các mô hình: Thay thế nhập khẩu (hướng nội); Xuấtkhẩu sản phẩm thô và sơ chế; Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (h ướng ngoại). Ngoàira còn có chiến lược phát triển hỗn hợp mà thực chất là sự kết hợp (trung hòa) của cả haihay cả ba loại chiến lược trên. Xét từ góc độ tăng trưởng kinh tế cơ sở lý luận của các loại chiến lược phát triểntrên đây đều dựa vào sự vận dụng ở các mức độ khác nhau “Quy luật lợi thế so sánh” (Lawof comparative advantage) do David Ricardo (1772 -1823)-nhà kinh tế học người Anh đềxuất năm 1817 trong công trình nghiên cứu nổi tiếng “Những nguyên tắc kinh tế chính trịvà thuế” (Principles of Political Economy and Taxation). Sau đó trong suốt nửa đầu thế kỷ20, bằng thuyết “Nguồn lực sản xuất vốn có” (Factor Endowments), hai nhà kinh tế họcThụy Điển: Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã tiếp tục phát triển quy luật này bằng cách giảithích đầy đủ hơn về nguyên nhân và lợi ích của thương mại quốc tế. Theo quy luật này,các nước khác nhau đều có các lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh khác nhau về laođộng, tài nguyên, vị trí địa lý và các nguồn lực tự nhiên-xã hội khác. Trong hai giai đoạn đầu của quá trình CNH (1950 -1960 và 1970-1980), Hàn Quốcđã gặt hái được những thành công to lớn trong việc thực hiện chiến lược CNH hướng vềxuất khẩu (hướng ngoại). Chiến lược này, ngược hẳn với chiến lược thay thế nhập khẩu, đãthể hiện được sự vận dụng quy luật lợi thế so sánh ở mức độ cao nhất và đặc biệt đề caoviệc mở cửa nền kinh tế. Nội dung cơ bản của chiến lược này khẳng đ ịnh những n ước khácnhau có nh ững lợi thế so sánh khác nhau vì thế các nước cần “phụ thuộc” lẫn nhau trongquá trình phát triển để có thể trao đổi cho nhau các lợi thế so sánh đó thông qua các hoạtđộng Ngoại Thương, liên doanh liên kết cùng nhau đầu tư phát triển sản xuất-kinh doanhvề một loại sản phẩm nào đó. Thực tiễn quá trình CNH của Hàn Quốc đã ch ứng tỏ đượctính đúng đắn của chiến lược này cũng như sự phù hợp của nó với xu thế phát triển củathời đại là quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và hợp tác vì sự phát triển chung của toànnhân loại. Về thực chất, chiến lược này là quá trình điều chỉnh cơ cấu công ...

Tài liệu được xem nhiều: