Danh mục

LUẬN VĂN: Nghiên cứu vấn đề sở hữu

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 0.00 B      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiến lên xây dựng CNXH là mục tiêu của dân tộc ta. Trong quá trình xây dựng chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Để có được một xã hội tốt đẹp cần phải có thời gian xây dựng và phát triển LLSX và QHSX. Do vậy, cần phải trải qua thời kỳ quá độ để chuẩn bị, thừa hưởng những thành tựu của xã hội trước và định hướng theo quy luật của xã hội mới, nên cùng một lúc xẽ tồn tại nhiều hình thức đan xen. Việt Nam với mục tiêu xây dựng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN:Nghiên cứu vấn đề sở hữu LUẬN VĂN:Nghiên cứu vấn đề sở hữu Lời nói đầu Tiến lên xây dựng CNXH là mục tiêu của dân tộc ta. Trong quá trình xây dựngchúng ta gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Để có được một xã hội tốt đẹp cần phải cóthời gian xây dựng và phát triển LLSX và QHSX. Do vậy, cần phải trải qua thời kỳ quáđộ để chuẩn bị, thừa hưởng những thành tựu của xã hội trước và định hướng theo quyluật của xã hội mới, nên cùng một lúc xẽ tồn tại nhiều hình thức đan xen. Việt Nam vớimục tiêu xây dựng Nhà nước hội của dân do dân và vì dân. Một xã hội không có chế độngười bóc lột, xã hội mà mọi người làm chủ, tự giác lao động và hưởng theo lao độngdo vậy cần phải có thời gian dài. Tại Trung Quốc xác định thời gian này là hàng trămnăm. Trong điều kiện Việt Nam bị tàn phá trong chiến tranh, và sự giúp đỡ của các nướcxã hội chủ nghĩa không còn, cần phải xây dựng nền kinh tế thị trường, phát huy tất cảtiềm năng, sức mạnh của nó để có được LLSX phát triển. Định hướng của Việt Nam làphát triển nền kinh tế dựa trên thành phần kinh tế Nhà nước làm nền tảng cho các thànhphần khác phát triển theo định hướng của nó. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường phải theo định hướng xã hội chủ nghiãViệt Nam đã dành được nhiều thành công, bên cạnh đó vẫn gặp nhiều khó khăn trongviệc xây dựng cơ chế chính sách, đặc biệt là vấn đề xác định quyền sở hữu ở nước ta.Tồn tại nhiều thành phần trên cở sở nhiều hình thức sở hữu. Sở hữu ở nước ta vần còn là vấn đề gây tranh cãi, và có nhiều nhà khoa học đangnghiên cứu, và có nhiều tranh luận trong vấn đề sở hữu tư liệu sản luật sở hữu là vấn đềcơ bản của hệ thống quan hệ sản xuất, của một chế độ kinh tế-xã hội. Mỗi chế độ sở hữuthống trị và thích ứng nhất định. Đối với nước ta, thực hiện nhất quán nhiều thành phầntheo định hướng XHCN, tất yếu phải xác định được chế độ về thị trường liệu sản xuấtphản ánh đúng bản chất kinh tế xã hội. Do đó, xây dựng một chế độ sở hữu về tư liệusản xuất phát triển từ thấp lên đến cao theo hướng dần dần làm cho sở hữu XHCN giữvai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là một trong những nhiệm vụ then chốt vàphải được tiến hành thật tốt trong suốt thời kỳ quá độ. Hiện nay, đang có những nhận xét đang có những nhận xét, đánh giá phê bình khácnhau về các hình thức sở hữu. Trên thực tế nước ta chưa xác định một các chính xác, vàcòn nhiều lúng túng trong việc xây dựng chế độ sở hữu mới. Vì vậy, nghiên cứu vấn đềsở hữu có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mắt lý luận và thực tiễn để nhanh trónhphát triển kinh tế xã hội tạo điều kiện kết thúc thời kỳ quá độ và có xã hội chủ nghĩamột cách toàn diện. I, Lý luận chung về sở hữu 1. Phạm trù sở hữu Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cảivật chất của xã hội. Để sinh sống, tồn tại và sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chấtđáp ứng ngày càng tăng của mình, con người phải chiếm hữu tự nhiên. Do vậy, chiếmhữu biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền phát triển với tồn tạicủa con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử.Khi đó sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế-xã hội nhấtđịnh, gắn liền với một tổ chức xã hội nhất định. Vì vậy, sở hữu là quan hệ giữa ngườivới người trong sự chiếm hữu tự nhiên, là phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thayđổi các hình thái xã hội trong lịch sử. Con người chiếm hữu vật tự nhiên không chỉ đơn thuần tiêu dùng cá nhân, mà quantrọng hơn là tiêu dùng cho sản xuất, tái sản xuất thêm nhiều của cải để chiếm hữu. Nhưvậy, một mặt, quan hệ giữa người với người trong sản xuất đặt ra, từ đó mới có quan hệsinh hoạt. Mặt khác, quan hệ giữa người với người bao giờ cũng phải có vật làm trunggian, môi giới. Vật đó là sản phẩm của tự nhiên hoặc là thành quả của lao động. Sở hữulà quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý trí của con người trong xã hội. Một cánhân không thể lấy ý trí của mình để tự khẳng định là người sở hữu mà không quan tâmtới người khác cũng đang muốn sở hữu vật đó. Sở hữu trở thành thực tế khi mối quan hệgiữa người với người, độc lập với quan hệ ý chí. Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu và được thực hiện thông quamột cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là chủ thể của các quan hệ sở hữu thành các quyền sở hữu, sử dụng,định đoạt thừa kế, chuyển nhượng mua bán... Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ tài sản theo ý chí củamình. Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình chongười khác hoặc là từ bỏ quyền sở hữu. Vậy sở hữu được xem xét theo hai khía cạnh: Thứ nhất, sở hữu được coi là một phạm trù kinh tế, là quan hệ giữa người với ngườitrong việc chiếm hữu TLSX. Thứ hai, sở hữu với tính cách là một hình thức pháp lý, là hình thức phản ánh quanh ...

Tài liệu được xem nhiều: