Danh mục

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Số trang: 84      Loại file: pdf      Dung lượng: 907.05 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; Thực trạng pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện ở tỉnh Đồng Nai; Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM NGỌC ANH GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM NGỌC ANH GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẶNG VŨ HUÂN Hà Nội, năm 2021 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là vùng lãnh thổ không thể tách rời của mỗi quốc gia, là tài nguyên vô giá, là thành phần cốt lõi của môi trường sống, là nơi phân bố dân cư và là nguồn tư liệu sản xuất trọng yếu trong nông nghiệp, sản xuất, kinh doanh. Đất đai cũng là nền tảng để đặt các công trình dân dụng, các công trình phát triển kinh tế – xã hội, là tài sản có giá trị lớn của mọi chủ thể trong xã hội… Trong thời điểm nước ta tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai ngày càng phát huy vai trò quan trọng của mình, đặc biệt với vai trò là nguồn tư liệu sản xuất trọng yếu không chỉ trong sản xuất nông nghiệp. Trong mọi lĩnh vực kinh tế đều cần sử dụng đất đai, đối với sản xuất công nghiệp là nền tảng để xây dựng các nhà máy – xí nghiệp; đối với phát triển thương mại và dịch vụ, để xây dựng các trung tâm thương mại, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, khu du lịch… Xuất phát từ vai trò to lớn đối với kinh tế – chính trị – xã hội, pháp luật Việt Nam quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tuy nhiên trên thực tế, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) để chuyển giao cho các chủ thể khác sử dụng. Bằng các quy định của pháp luật đất đai, Nhà nước cũng đã mở rộng quyền cho người sử dụng đất (NSDĐ), mà một trong đó số đó là quyền góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp để hợp tác sản xuất, kinh doanh. Quyền góp vốn bằng QSDĐ đã được ghi nhận từ năm 1977 trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và được triển khai từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Tuy nhiên, trên thực tế, ngay cả ở thời điểm hiện tại, quyền này chưa được NSDĐ cũng như cán bộ công chức Nhà nước hiểu đúng bản chất và áp dụng rộng rãi, chưa phát huy được hiệu quả. Quá trình thực hiện quyền góp vốn và nhận góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp tại từng địa phương còn nhiều hạn chế, thậm chí có sự khác biệt rõ rệt trong việc áp dụng pháp luật tại từng địa phương. Điều này, dẫn đến khó khăn cho cả NSDĐ có nhu cầu góp vốn và doanh nghiệp có nhu cầu nhận góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp. 1 Luật Đất đai qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, nhưng QSDĐ - xét về mặt tổng quan vẫn chưa được xem là một loại hàng hóa có thể tự do lưu thông. Các Luật, Bộ luật điều chỉnh quan hệ góp vốn bằng QSDĐ như: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn khi xét ở phương diện thực thi. Từ những nguyên do đó, việc vô cùng cấp bách và mang ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay là nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp ở địa phương. Với mong muốn làm rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp trong thực tiễn tại một địa phương cụ thể là tỉnh Đồng Nai, nên tôi đã lựa chọn đề tài “Góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có thể nói, hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và góp vốn bằng QSDĐ vào doanh nghiệp nói riêng đã được các nhà khoa học pháp lý chuyên ngành quan tâm và nghiên cứu từ lâu. Việc góp vốn bằng QSDĐ đã được ghi nhận từ năm 1977 trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhưng chỉ đến khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 mới được triển khai. Góp vốn bằng QSDĐ là một hình thức góp vốn, do đó, có thể được nghiên cứu ở nhiều phương diện và mức độ khác nhau. Đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về góp vốn bằng QSDĐ nói chung, được công bố trên các luận án tiến sĩ, thạc sĩ, báo cáo khoa học, đề tài nghiên cứu, tạp chí, sách chuyên khảo… như: - Bài viết của tác giả Đỗ Quốc Quyền (2010): “Xác định loại và giá trị tài sản góp ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: