LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Số trang: 94
Loại file: pdf
Dung lượng: 3.87 MB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nước....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay LUẬN VĂN:Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặcmột hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họgặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạtđộng xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩavụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình,xã hội và nhà nước. Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạocủa dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định:Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thànhviên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh … Chăm lo đời sốngnhững người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi [17]. Nghị quyết Đạihội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đốivới toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và pháttriển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội chonhững người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sungchính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinhtế, quản lý xã hội” [15]. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là côngdân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợgiúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xãhội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ emkhuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 59), “Người già, người tàn tật,trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) [29]. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản phápluật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để người khuyết tật thực hiệnnhững quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội.Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua Pháp lệnh về ngườitàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với ngườitàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợnuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao vàsử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật.” Nhà nước khuyến khích và tạo điềukiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, vănhoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được nhà nước và xã hội trợ giúp chămsóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền kháctheo quy định của pháp luật”. Cùng với Pháp lệnh về người tàn tật, Quốc hội đã ban hànhhệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng nhiều quy phạm liên quan đến người khuyếttật như: Bộ luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáodục trẻ em, Luật giao thông đường bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xâydựng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng… Chính phủ, các Bộ, ngành và cácđịa phương đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về ngườiTàn tật và các quy định liên quan đến người khuyết tật của các luật chuyên ngành. Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, nhà nước đã tạo được hànhlang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhậpcộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện chocác tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quảthiết thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật nảy sinh nhiềuvấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ, thiếutính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây khó khăn cho quá trình tổchức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mười năm vẫn không thể thực hiện như quyđịnh lập Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hìnhdoanh nghiệp phải nhận từ 2% đến 3% lao động là người khuyết tật vào làm việc. Việcbảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếmviệc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay LUẬN VĂN:Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặcmột hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do khuyết tật nên họgặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạtđộng xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩavụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình,xã hội và nhà nước. Là mắt xích quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạocủa dân tộc, người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) khẳng định:Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thànhviên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh … Chăm lo đời sốngnhững người già cả neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi [17]. Nghị quyết Đạihội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đốivới toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và pháttriển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội chonhững người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sungchính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới và cơ chế quản lý kinhtế, quản lý xã hội” [15]. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là côngdân - thành viên của xã hội, được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợgiúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xãhội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ emkhuyết tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 59), “Người già, người tàn tật,trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) [29]. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản phápluật đã được ban hành tạo hành lang và cơ sở pháp lý để người khuyết tật thực hiệnnhững quyền cơ bản của con người, tham gia vào đời sống và sự phát triển của xã hội.Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua Pháp lệnh về ngườitàn tật. Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với ngườitàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợnuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao vàsử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật.” Nhà nước khuyến khích và tạo điềukiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, vănhoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được nhà nước và xã hội trợ giúp chămsóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền kháctheo quy định của pháp luật”. Cùng với Pháp lệnh về người tàn tật, Quốc hội đã ban hànhhệ thống các luật chuyên ngành chứa đựng nhiều quy phạm liên quan đến người khuyếttật như: Bộ luật lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật bảo vệ và chăm sóc, giáodục trẻ em, Luật giao thông đường bộ, Luật thanh niên, Luật trợ giúp pháp lý, Luật xâydựng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng… Chính phủ, các Bộ, ngành và cácđịa phương đã ban hành hàng trăm văn bản nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về ngườiTàn tật và các quy định liên quan đến người khuyết tật của các luật chuyên ngành. Sau nhiều năm thực hiện pháp luật về người khuyết tật, nhà nước đã tạo được hànhlang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhậpcộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện chocác tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quảthiết thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật nảy sinh nhiềuvấn đề bất cập. Hệ thống văn bản pháp luật vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ, thiếutính thống nhất và sự chồng chéo giữa các văn bản luật đã gây khó khăn cho quá trình tổchức thực hiện. Có những quy phạm sau hơn mười năm vẫn không thể thực hiện như quyđịnh lập Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật; Quy định bắt buộc một số loại hìnhdoanh nghiệp phải nhận từ 2% đến 3% lao động là người khuyết tật vào làm việc. Việcbảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếmviệc làm, tham gia giao thông công cộng thực tế ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
pháp luật về người khuyết tật chính sách ngưởi khuyết tật cao học lịch sử luận văn cao học cao học xã hội luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 301 0 0 -
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 235 0 0 -
79 trang 223 0 0
-
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 217 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 211 0 0 -
LUẬN VĂN: TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP HỌC TÍCH CỰC VÀ ỨNG DỤNG CHO BÀI TOÁN LỌC THƯ RÁC
65 trang 208 0 0 -
Báo cáo thực tập nhà máy đường Bến Tre
68 trang 208 0 0 -
BÀI THUYẾT TRÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN
11 trang 204 0 0 -
Luận văn: Nghiên cứu văn hóa Ấn Độ
74 trang 198 0 0 -
Báo cáo bài tập môn học : phân tích thiết kế hệ thống
27 trang 198 0 0