LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Số trang: 105
Loại file: pdf
Dung lượng: 725.07 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay LUẬN VĂN:Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vậndụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộngsản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hànhđộng của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng Hồ ChíMinh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản củacách mạng Việt Nam [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quantâm đến công tác cán bộ; Người coi Cán bộ là cái gốc của mọi công việc[43,tr.269], và Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém[43,tr.240]. Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coitrọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất l ượng độingũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng thenchốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và pháttriển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trongnhiều văn kiện của đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra:Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năngnghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm,vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: Cán bộ là nhân tố quyết định sựthành bại của cách mạng[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX củaĐảng (2001) khẳng định: Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: Xâydựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là côngbộc của nhân dân [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: Đổi mới chính sách cán bộ vàcông tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cánbộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng vàcông bằng [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậtViệt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra xây dựng và hoànthiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nướcphù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước và ban hành luậtvề công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm nhữnggì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cánbộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ,công chức. Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thànhpháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậtcán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hànhnhiều văn bản quy phạm pháp luật như pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửađổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, quyếtđịnh 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chươngtrình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010... Những vănbản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạchvững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nướcta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càngđược nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổimới đất nước. Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưađồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống; các văn bản quyphạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm quacũng còn nhiều h ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay LUẬN VĂN:Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vậndụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộngsản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hànhđộng của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng Hồ ChíMinh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản củacách mạng Việt Nam [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quantâm đến công tác cán bộ; Người coi Cán bộ là cái gốc của mọi công việc[43,tr.269], và Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém[43,tr.240]. Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coitrọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất l ượng độingũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng thenchốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và pháttriển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trongnhiều văn kiện của đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra:Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năngnghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm,vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: Cán bộ là nhân tố quyết định sựthành bại của cách mạng[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX củaĐảng (2001) khẳng định: Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: Xâydựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là côngbộc của nhân dân [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: Đổi mới chính sách cán bộ vàcông tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cánbộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng vàcông bằng [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậtViệt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra xây dựng và hoànthiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nướcphù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước và ban hành luậtvề công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm nhữnggì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cánbộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ,công chức. Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thànhpháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậtcán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hànhnhiều văn bản quy phạm pháp luật như pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửađổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, quyếtđịnh 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chươngtrình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010... Những vănbản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạchvững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nướcta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càngđược nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổimới đất nước. Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưađồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống; các văn bản quyphạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm quacũng còn nhiều h ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
hoàn thiện pháp luật pháp luật cán bộ tư tưởng hồ chí minh luận văn cao học cao học xã hội xã hội học luận vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phần 1 - Phạm Văn Quyết
123 trang 464 11 0 -
40 trang 451 0 0
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 309 0 0 -
Giáo trình Chính trị (Trình độ: Trung cấp nghề) - Trường Trung cấp nghề Củ Chi
84 trang 303 1 0 -
20 trang 295 0 0
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2019)
144 trang 271 7 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 266 0 0 -
128 trang 256 0 0
-
34 trang 255 0 0
-
64 trang 250 0 0
-
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 238 0 0 -
79 trang 230 0 0
-
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 219 0 0 -
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 219 0 0 -
LUẬN VĂN: TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP HỌC TÍCH CỰC VÀ ỨNG DỤNG CHO BÀI TOÁN LỌC THƯ RÁC
65 trang 216 0 0 -
Báo cáo thực tập nhà máy đường Bến Tre
68 trang 214 0 0 -
101 trang 207 0 0
-
Báo cáo bài tập môn học : phân tích thiết kế hệ thống
27 trang 206 0 0 -
BÀI THUYẾT TRÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN
11 trang 205 0 0 -
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2 (năm 2010)
129 trang 204 0 0