LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay
Số trang: 84
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.02 MB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến nay các doanh nghiệp (DN) này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt DNV&N không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua vai trò của DNV&N là tác nhân động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Do vai trò to lớn như vậy, nên hiện nay DNV&N được Nhà nước Việt Nam quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên các DN này hiện nay đang đứng trước khó khăn lớn như năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên rất khó đứng vững trên thị trường quốc tế. Cũng giống như các nước ASEAN và các nước trong khu vực, khởi điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, nhưng đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ về kinh tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, muốn đạt được tăng trưởng cao và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước cần thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về DNV&N chưa được giải quyết: từ khái niệm, vai trò, mô hình phát triển đến việc tạo lập môi trường kinh doanh cho các DN này. Nhà nước hiện chưa có cơ chế chính sách thoả đáng khuyến khích hỗ trợ các DN này phát triển. Vì lý do đó bài viết này của em xin trình bày một số quan điểm của mình về “Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay”. Chương I Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của chính phủ I-/ Khái niệm và vai trò của DNV&N. 1-/ Khái niệm về DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, phát triển DNV&N đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: cần phải ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh,... Đây thực sự là định hướng đúng đắn để nền kinh tế nước ta thích ứng và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định sự thành đạt của một số quốc gia về kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DN vừa và nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cũng như những khẳng định về vai trò, vị trí và chính sách quản lý phát triển DNV&N ở Việt Nam. Theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Chính phủ Việt Nam đã tạm thời quy định: DNV&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận có qui mô DN (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng trường hợp cụ thể. Hiện nay DNV&N là những DN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động dưới trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong thương mại dịch vụ, DNV&N là những DN có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. 2-/ Các loại DNV&N. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, ta có những cách phân loại khác nhau. Các tiêu chí phân loại tuỳ thuộc rất nhiều vào mục đích phân loại. a. Các nhóm tiêu chí phân loại: Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNV&N. Nhưng không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNV&N cho tất cả các nước, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành nghề, từng địa bàn và từng thời điểm khác nhau. Có hai nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N: Tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính: dựa trên các đặc trưng cơ bản của các DNV&N như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp,... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở để phân loại. Tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách lao động thường xuyên, lao động thực tế. - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng trên năm. b. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N. Khi phân loại DNV&N, có rất nhiều yếu tố tác động. Ta có thể nhóm thành các yếu tố sau: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động vốn để phân loại NDV&N sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở nhật bản DN có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNV&N, còn DN có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là DN lớn. - Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may) có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như (hoá chất, điện). D ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay LUẬN VĂN: Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Hơn 20 năm duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam, Nhà nước đã tập trung hết các nguồn lực vào phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp có qui mô lớn đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng như cơ khí, khai khoáng, điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) chưa được chú ý đúng mức. Từ năm 1986 đến nay cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, sang kinh tế thị trường, vai trò của các DNV&N ngày càng được khẳng định. Đến nay các doanh nghiệp (DN) này có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc phát triển tốt DNV&N không những góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua vai trò của DNV&N là tác nhân động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Do vai trò to lớn như vậy, nên hiện nay DNV&N được Nhà nước Việt Nam quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên các DN này hiện nay đang đứng trước khó khăn lớn như năng lực quản lý kém, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên rất khó đứng vững trên thị trường quốc tế. Cũng giống như các nước ASEAN và các nước trong khu vực, khởi điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, nhưng đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ về kinh tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, muốn đạt được tăng trưởng cao và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước cần thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về DNV&N chưa được giải quyết: từ khái niệm, vai trò, mô hình phát triển đến việc tạo lập môi trường kinh doanh cho các DN này. Nhà nước hiện chưa có cơ chế chính sách thoả đáng khuyến khích hỗ trợ các DN này phát triển. Vì lý do đó bài viết này của em xin trình bày một số quan điểm của mình về “Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay”. Chương I Doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của chính phủ I-/ Khái niệm và vai trò của DNV&N. 1-/ Khái niệm về DNV&N. ở Việt Nam hiện nay, phát triển DNV&N đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: cần phải ưu tiên phát triển các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh,... Đây thực sự là định hướng đúng đắn để nền kinh tế nước ta thích ứng và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định sự thành đạt của một số quốc gia về kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DN vừa và nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cũng như những khẳng định về vai trò, vị trí và chính sách quản lý phát triển DNV&N ở Việt Nam. Theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Chính phủ Việt Nam đã tạm thời quy định: DNV&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận có qui mô DN (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng trường hợp cụ thể. Hiện nay DNV&N là những DN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động dưới trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong thương mại dịch vụ, DNV&N là những DN có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. 2-/ Các loại DNV&N. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, ta có những cách phân loại khác nhau. Các tiêu chí phân loại tuỳ thuộc rất nhiều vào mục đích phân loại. a. Các nhóm tiêu chí phân loại: Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNV&N. Nhưng không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNV&N cho tất cả các nước, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành nghề, từng địa bàn và từng thời điểm khác nhau. Có hai nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N: Tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính: dựa trên các đặc trưng cơ bản của các DNV&N như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp,... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở để phân loại. Tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách lao động thường xuyên, lao động thực tế. - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng trên năm. b. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N. Khi phân loại DNV&N, có rất nhiều yếu tố tác động. Ta có thể nhóm thành các yếu tố sau: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động vốn để phân loại NDV&N sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở nhật bản DN có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNV&N, còn DN có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là DN lớn. - Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may) có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như (hoá chất, điện). D ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
phát triển dịch vụ kinh tế chính trị luận văn kinh tế chính trị tài liệu kinh tế chính trị phát triển kinh tế đặc điểm kinh tế luận vănTài liệu liên quan:
-
Thảo luận đề tài: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
98 trang 310 0 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 296 0 0 -
Cải cách mở cửa của Trung Quốc & kinh nghiệm đối với Việt Nam
27 trang 271 0 0 -
Luận văn: Thiết kế xây dựng bộ đếm xung, ứng dụng đo tốc độ động cơ trong hệ thống truyền động điện
63 trang 238 0 0 -
79 trang 230 0 0
-
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 220 0 0 -
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 219 0 0 -
LUẬN VĂN: TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP HỌC TÍCH CỰC VÀ ỨNG DỤNG CHO BÀI TOÁN LỌC THƯ RÁC
65 trang 218 0 0 -
4 trang 218 0 0
-
Đề tài Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất'
35 trang 217 0 0