Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 139.56 KB
Lượt xem: 19
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn
Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động (20/7/2000), thị trường chứng khoán đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Quy mô của thị trường ngày càng được mở rộng, thu hút được sự tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước, huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư và phát triển… Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song hoạt động của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động (20/7/2000), thị trường chứng khoán đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Quy mô của thị trường ngày càng được mở rộng, thu hút được sự tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước, huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư và phát triển… Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song hoạt động của thị trường còn có những khó khăn, hạn chế nhất định. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển; thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán... nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường; chất lượng hoạt động, cung cấp dịch vụ trên thị trường chứng khoán chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế. Những hạn chế của thị trường chứng khoán nói trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó khuôn khổ pháp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán là Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 144), sau 5 năm vận hành cho thấy hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán còn hạn chế, chưa đầy đủ và đồng bộ, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: Thứ nhất, về việc phát hành chứng khoán ra công chúng: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường sơ cấp, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Thứ hai, về thị trường giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán, do vậy, các giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do đang diễn ra khá sôi động mà không có sự quản lý của Nhà nước. Thứ ba, về tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 quy định Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, điều này là không phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, các Trung tâm giao dịch chứng khoán thường tổ chức theo mô hình công ty. Tính độc lập của Trung tâm giao dịch chứng khoán không cao, đặc biệt là công tác quản trị điều hành còn mang tính hành chính, thẩm quyền về giám sát các hoạt động giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán còn hạn chế. Thứ tư, về giám sát và xử lý vi phạm: Nghị định 144 không bao hàm hết các hành vi vi phạm và chưa xác định rõ nguyên tắc xử phạt cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạm trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hạn chế này có ảnh hưởng đến sự công khai, minh bạch của khuôn khổ pháp lý trên phương diện quản lý nhà nước cũng như bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Thứ năm, về khả năng phát triển thị trường và hội nhập: Nghị định 144 có những quy định chưa được rõ ràng và chuẩn mực theo nguyên tắc thị trường, vì vậy sẽ có khó khăn khi thị trường phát triển ở trình độ cao và khi Việt Nam hội nhập với thị trường vốn quốc tế. Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi hỏi phi phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô thị trường chứng khoán từ 10 - 15% GDP vào năm 2010 (khoảng 10 - 15 tỷ USD), đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán. Từ thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam nói trên, có thể thấy rằng việc ban hành Luật Chứng khoán mang tính cần thiết khách quan thể hiện qua các nội dung cơ bản sau: 1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X. 2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư. 3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. 4. Luật Chứng khoán ra đời tạo ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm Luật chứng khoán và nghị định hướng dẫn Kiến thức chứng khoán Sau 5 năm kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động (20/7/2000), thị trường chứng khoán đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Quy mô của thị trường ngày càng được mở rộng, thu hút được sự tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước, huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư và phát triển… Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song hoạt động của thị trường còn có những khó khăn, hạn chế nhất định. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển; thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán... nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường; chất lượng hoạt động, cung cấp dịch vụ trên thị trường chứng khoán chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế. Những hạn chế của thị trường chứng khoán nói trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó khuôn khổ pháp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán là Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 144), sau 5 năm vận hành cho thấy hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán còn hạn chế, chưa đầy đủ và đồng bộ, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: Thứ nhất, về việc phát hành chứng khoán ra công chúng: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường sơ cấp, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Thứ hai, về thị trường giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán, do vậy, các giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do đang diễn ra khá sôi động mà không có sự quản lý của Nhà nước. Thứ ba, về tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 quy định Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, điều này là không phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, các Trung tâm giao dịch chứng khoán thường tổ chức theo mô hình công ty. Tính độc lập của Trung tâm giao dịch chứng khoán không cao, đặc biệt là công tác quản trị điều hành còn mang tính hành chính, thẩm quyền về giám sát các hoạt động giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán còn hạn chế. Thứ tư, về giám sát và xử lý vi phạm: Nghị định 144 không bao hàm hết các hành vi vi phạm và chưa xác định rõ nguyên tắc xử phạt cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạm trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hạn chế này có ảnh hưởng đến sự công khai, minh bạch của khuôn khổ pháp lý trên phương diện quản lý nhà nước cũng như bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Thứ năm, về khả năng phát triển thị trường và hội nhập: Nghị định 144 có những quy định chưa được rõ ràng và chuẩn mực theo nguyên tắc thị trường, vì vậy sẽ có khó khăn khi thị trường phát triển ở trình độ cao và khi Việt Nam hội nhập với thị trường vốn quốc tế. Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi hỏi phi phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô thị trường chứng khoán từ 10 - 15% GDP vào năm 2010 (khoảng 10 - 15 tỷ USD), đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán. Từ thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam nói trên, có thể thấy rằng việc ban hành Luật Chứng khoán mang tính cần thiết khách quan thể hiện qua các nội dung cơ bản sau: 1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X. 2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư. 3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. 4. Luật Chứng khoán ra đời tạo ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 770 21 0 -
2 trang 506 0 0
-
18 trang 462 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 439 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 421 12 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 380 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 370 10 0 -
3 trang 302 0 0
-
Tạo nền tảng phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam
3 trang 290 0 0 -
Đề cương học phần Tài chính doanh nghiệp
20 trang 285 0 0