Danh mục

Lưu ý khi dùng thuốc lợi tiểu

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.08 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không nên tự ý ngưng thuốc nửa chừng khi chưa tham khảo ý kiến thầy thuốc.Thuốc lợi tiểu là những thuốc có tác dụng làm tăng sự đào thải muối và nước ở thận, do đó làm cho ta đi tiểu nhiều hơn. Thuốc lợi tiểu thường được chỉ định trong các trường hợp sau:Bị bệnh tăng huyết áp: Thuốc làm tăng đào thải nước tiểu, làm giảm khối lượng nước trong cơ thể nên gián tiếp làm hạ huyết áp. Trong một số trường hợptăng huyết áp, thuốc lợi tiểu có thể dùng duy nhất nhưng thường được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lưu ý khi dùng thuốc lợi tiểu Lưu ý khi dùng thuốc lợi tiểu Không nên tự ý ngưng thuốc nửa chừng khi chưa tham khảo ý kiến thầy thuốc. Thuốc lợi tiểu là những thuốc có tác dụng làm tăng sự đào thải muối vànước ở thận, do đó làm cho ta đi tiểu nhiều hơn. Thuốc lợi tiểu thường được chỉ định trong các trường hợp sau: Bị bệnh tăng huyết áp: Thuốc làm tăng đào thải nước tiểu, làm giảm khốilượng nước trong cơ thể nên gián tiếp làm hạ huyết áp. Trong một số trường hợptăng huyết áp, thuốc lợi tiểu có thể dùng duy nhất nhưng thường được kết hợp làmtăng thêm tác dụng của các thuốc hạ huyết áp. Bị suy tim: Thuốc lợi tiểu gián tiếp làm giảm khối lượng máu lưu hành, làmgiảm tiền gánh, tạo điều kiện cho tim vốn đã bị suy yếu hoạt động tốt hơn. Bị phù: Thuốc lợi tiểu giúp lợi nước bị ứ trong cơ thể do bị bệnh về phổi(phù phổi), gan (xơ gan), thận (hội chứng thận hư)... Các loại thuốc lợi tiểu Thuốc lợi tiểu có thể chia thành 3 nhóm chính sau: Nhóm thuốc lợi tiểu thiazid: Gọi là thiazid vì trong cấu trúc hóa học của cácthuốc thuộc nhóm này có nhân thiazid, gồm có các thuốc: clorothiazid,hydroclorothiazid, indapamid, metolazon, clorthalidon... Vị trí tác động của nhómthuốc này là ở ống uốn xa nằm ở vỏ thận làm tăng bài tiết muối, do đó sẽ làm tăngthải nước tiểu. Đây là nhóm thuốc lợi tiểu được sử dụng ưu tiên trong điều trị tănghuyết áp do hiệu quả hạ áp cao hơn các nhóm lợi tiểu khác. Biến chứng có thể gặpkhi dùng nhóm thiazid là hạ kali máu do tăng sự bài tiết kali vào trong nước tiểu. Nhóm thuốc lợi tiểu tác động ở quai Henlé: Như tên gọi, vị trí tác động củanhóm thuốc là nhánh trên của quai Henlé nằm trên vùng tủy thận. Đây là nhómthuốc có tác dụng lợi tiểu rất mạnh và làm mất natri nhanh hơn nhóm thiazid nênthích hợp dùng trong trường hợp suy tim và phù nặng. Thuộc loại này gồm có:flurosemid, acid ethacrynic, bumetamid... Nhóm này cũng gây hạ kali máu. Hai nhóm thuốc trên được gọi là thuốc “bài tiết” kali. Nhóm thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali: Nhóm thuốc này tác động lên đoạn cuốicủa ống uốn xa, gồm có: spironolacton, triamteren, amilorid... Tác dụng lợi tiểucủa nhóm này yếu nhưng do có khả năng giữ kali nên thường được phối hợp vớithuốc thuộc nhóm thiazid hoặc lợi tiểu quai Henlé. Một số biệt dược phối hợp:aldatazin = spironolacton + hydroclorothiazid; moduretic = amilorid +hydroclorothiazid... Biến chứng của nhóm thuốc này là đôi khi gây tăng urê máu,sỏi thận (triamteren), chứng to vú ở nam giới (spironolacton). Ngoài ba nhóm thuốc chính kể trên, còn có một số nhóm lợi tiểu khácthường dùng trong những trường hợp đặc biệt như: nhóm thuốc lợi tiểu thẩm thấu(manitol, glycerin, dùng trong phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh và phẫu thuậtmắt), nhóm thuốc lợi tiểu ức chế men carbonic anhydras (như acetazolamid dùngtrị tăng nhãn áp). Những chú ý khi dùng Nhất thiết phải có sự chỉ định của bác sĩ mới được dùng thuốc. Có nhiềuthuốc lợi tiểu mà việc chọn lựa sẽ tùy theo vào sự chỉ định điều trị, vào nồng độthải natri mong muốn, vào thời gian tác dụng của thuốc cũng như tác dụng phụ đặchiệu của mỗi loại thuốc và vào tình trạng chức năng thận của người bệnh. Chỉ cóthầy thuốc là người am hiểu cơ chế tác động của từng nhóm thuốc mới chọn thuốcthích hợp. Trong điều trị tăng huyết áp thường chọn thuốc có tác dụng thải natrivừa phải và kéo dài (như nhóm thiazid). Còn điều trị phù, sự lựa chọn thuốc sẽ tùythuộc vào mức độ cần thải muối. Muốn có tác dụng nhanh, đặc biệt trong phù phổicác nhà điều trị thường dùng thuốc có tác động ở quai Henlé uống và cả tiêm tĩnhmạch. Trong suy thận, người ta chỉ có thể dùng thuốc tác động ở quai chứ khôngdùng các nhóm thuốc khác. Trong điều trị, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ theo đúng liệu trình dùngthuốc do bác sĩ chỉ định, không được tự ý ngưng bỏ thuốc nửa chừng dù cảm thấykhỏe hơn. Có người cho rằng dùng thuốc lợi tiểu đi tiểu nhiều là “thoát dương”,yếu thận và liệt dương nên đã không tuân thủ điều trị. Điều này không nên, chỉ cóspironolacton dùng liều cao và lâu ngày có thể gây tình trạng “yếu sinh lý” nhưngngưng thuốc sẽ hồi phục. Vì vậy, người bệnh nên báo cho thầy thuốc biết tác dụngngoại ý để thầy thuốc xử trí bằng cách thay thuốc khác chứ không nên tự ý bỏthuốc. Khi bác sĩ chỉ định kết hợp thuốc lợi tiểu “bài tiết” kali và thuốc lợi tiểu“tiết kiệm” kali vẫn phải theo dõi tình trạng kali máu của người bệnh vì cân bằngcủa cơ thể vẫn có thể nghiêng về hoặc tăng hoặc giảm kali quá mức. Trong cơ thể, chất điện giải natri và kali đồng hành khăng khít với nhau.Các thuốc lợi tiểu thông dụng (nhóm thiazid và tác động ở quai Henlé) có tác dụngthả natri đồng thời làm mất kali. Kali đóng vai trò rất quan trọng trong co bóp timvà duy trì thể trạng tốt. Vì vậy ngườ ...

Tài liệu được xem nhiều: