Danh mục

Lý thuyết của Keynes về sự ưa thích tiền mặt và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 284.60 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để tìm hiểu nguyên nhân cũng như thực trạng của vấn trên, trong đề tài này em xin trình bày những vấn đề xoay quanh chủ đề “Lý thuyết của Keynes về sự ưa thích tiền mặt và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”. Tuy nhiên, với kinh nghiệm còn kém, về kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, bài nghiên cứu còn gặp nhiều sai sót, em kính mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy, cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết của Keynes về sự ưa thích tiền mặt và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam 166 LÝ THUYẾT CỦA KEYNES VỀ SỰ ƯA THÍCH TIỀN MẶT VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM Đỗ Vân Anh , K15 – NHTMC Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong các giao dịch trên thị trường còn rất cao. Đây chính là một trong những trở ngại của NHNN trong việc thực thi và ban hành chính sách tiền tệ khi không thể kiểm soát được lượng tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng. Để tìm hiểu nguyên nhân cũng như thực trạng của vấn trên, trong đề tài này em xin trình bày những vấn đề xoay quanh chủ đề “Lý thuyết của Keynes về sự ưa thích tiền mặt và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”. Tuy nhiên, với kinh nghiệm còn kém, về kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, bài nghiên cứu còn gặp nhiều sai sót, em kính mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy, cô để bài viết được hoàn thiện hơn. I. Giới thiệu “Lý thuyết về sự ưa thích tiền mặt” (Keynes Liquidity Preference Theory) của Keynes. Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh thuộc trường phái Cambridge, những ý tưởng của ông đã hình thành nên trường phái kinh tế học Keynes. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đầu tiên là “Tiền tệ và tài chính Ấn Độ”, “Hậu quả kinh tế của hoà ước”, “Thuyết cải cách tiền tệ” (1923), “Hậu quả kinh tế của ngài Churchill” (1925), “Thuyết tiền tệ” (1930). Năm 1926, ông phát biểu bài “Sự kết thúc của chủ nghĩa tự do thả nổi”. Năm 1933, ông phát biểu bài “Con đường đi tới phồn vinh”. Nhưng phải tới năm 1936, sau khi tác phẩm “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (The general theory of employment, interest and money) được xuất bản, thì tư tưởng kinh tế của ông mới được hình thành rõ nét nhất, tư tưởng ấy đã ảnh hưởng lớn tới các chính sách tiền tệ của nhiều quốc gia. Lý thuyết về cầu tiền tệ của ông mà được ông gọi là “Lý thuyết về sự ưa thích tiền mặt” đã đặt ra câu hỏi: “Tại sao các cá nhân giữ tiền mặt?” và Keynes đã bàn về vấn đề những gì ảnh hưởng đến quyết định cuả các cá nhân. Ông cho rằng có 3 động cơ đằng sau cầu tiền tệ, đó là: 167 • Động cơ giao dịch. Theo quan điểm của Fisher hay Cambridge, những cá nhân nắm giữ tiền vì tiền được coi là phương tiện trao đổi có thể dùng để tiến hành các giao dịch hàng ngày. Đi theo quan điểm cổ điển đó, Keynes đã nhấn mạnh bộ phận cấu thành của cầu tiền tệ trước tiên là do mức giao dịch của dân chúng. Cũng giống như các nhà kinh tế học cổ điển, ông tin rằng những giao dịch đó tỷ lệ thuận với thu nhập. • Động cơ dự phòng. Xa hơn các nhà kinh tế học cổ điển thừa nhận ngoài việc giữ tiền để phục vụ cho mục đích giao dịch, người ta còn giữ tiền để phục vụ cho các nhu cầu bất ngờ. Ông tin rằng số tiền mà người ta muốn nắm giữ phụ thuộc vào mức độ giao dịch mà họ dự tính sẽ thực hiện trong tương lai và nó tỷ lệ thuận với thu nhập dự tính với động cơ dự phòng • Động cơ đầu cơ. Nếu các nhà kinh tế học cổ điển chỉ dừng lại ở việc cho rằng thu nhập là yếu tố quan trọng duy nhất của cầu tiền tệ, thì cái mới của Keynes so với họ là ông đã nhận thấy tiền tệ còn là phương tiện cất giữ của cải và ông gọi đó là động cơ đầu cơ. Hơn nữa, ông còn tính đến những nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định xác định bao nhiêu tiền cho việc dự trữ của cải. Keynes chia tài sản có thể dự trữ thành hai loại là: tiền và trái khoán. Trong đó lợi tức dự tính của tiền bằng không còn lợi tức của trái phiếu gồm hai phần: lãi suất và suất lợi vốn. Sau đó, ông tìm hiểu lý do tại sao các chủ thể quyết định giữ tiền thay vì trái khoán. Theo thuyết cầu tài sản thì người dân sẽ muốn giữ tiền nếu lợi tức dự tính của tiền lớn hơn lợi tức dự tính của trái khoán. Trong trường hợp lãi suất giảm làm cho giá trái khoán giảm, dẫn tới tỷ suất lợi tức khi nắm giữ trái khoán giảm, dân cư sẽ chọn cách giữ tiền, do đó cầu tiền sẽ tăng. Ngược lại khi lãi suất đang cao hơn lãi suất thị trường, lãi suất sẽ được kỳ vọng giảm xuống làm giá trái khoán tăng lên và lợi suất vốn tăng lên và dân cư sẽ chọn trái khoán, theo đó cầu tiền sẽ giảm. Vì vậy, cầu tiền tệ có quan hệ âm với mức lãi suất. • Đặt chung 3 động cơ với nhau. 168 Khi đặt chung 3 mục tiêu với nhau, ông đã phân biệt giữa số lượng danh nghĩa và số lượng thực tế. Tiền được đánh giá theo giá trị thực mà nó có thể mua. Ông cho rằng người ta muốn giữ một số tiền nhất định của số dư tiền thực tế sẽ phụ thuộc vào thu nhập thực tế và lãi suất. Vì vậy ông đã đưa ra phương trình cầu tiền tệ sau: ( -, +) Trong đó: MD là cầu tiền; P là mức giá cả; i là lãi suất; Y là thu nhập thực tế; Dấu (-, +) trong hàm số ưa thích tiền mặt có ý nghĩa là cầu về số dư tiền mặt thực tế có liên hệ âm với i và liện hệ dương với Y; MD/P là cầu số dư tiền mặt thực tế. Trong điều kiện cân bằng của tiền tệ thì MD = M. Khi lấy Y chia cho cả 2 vế ta được phương trình mới về tốc độ vòng quay của tiền có dạng: Như vậy cầu tiền tệ liên hệ âm với lãi suất. Do lãi suất bị biến động mạnh nên thuyết ưa thích tiền mặt chỉ ra rằng tốc độ cũng biến động mạnh. II. Vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu thực trạng các vấn đề ở Việt Nam 1. Thực trạng việc thanh toán, giao dịch của người dân Việt Nam a. Thói quen ưa thích dùng tiền mặt trong các giao dịch thanh toán Để đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 2015 sẽ có khoảng 250.000 POS (Point of Sale - Máy chấp nhận thanh toán bằng thẻ) được lắp đặt và số lượng giao dịch đạt khoảng 200 triệu giao dịch/năm. Theo thống kê gần nhất tính đến cuối tháng 6/2014 của hiệp hội ngân hàng Việt Nam VNBA, cả nước có 37 Ngân hàng thương mại (NHTM) lắp đặt được 149.000 POS, tăng khoảng 15% so với cuối năm 2013. ...

Tài liệu được xem nhiều: