Lý thuyết về sự tăng trưởng và các lý thuyết sau đó
Số trang: 10
Loại file: doc
Dung lượng: 105.00 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tôi đã được kể rằng tất cả mọi người đều có những giấc mơ, nhưng một vài người có thói quen
quên chúng ngay trước lúc tỉnh dậy. Điều này dường như cũng xảy ra với tôi. Bởi vậy tôi không
biết liệu tôi đã bao giờ mơ thấy được nói bài diễn thuyết này chưa. Tôi biết rằng tôi đã ở trong căn
phòng này trước kia nhưng đó là trong cuộc sống thực khi tôi đang thức. Nếu tôi đã từng đọc bài
diễn thuyết này trong giấc mơ của tôi, thì chắc chắn đề tài sẽ là lý thuyết vể sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết về sự tăng trưởng và các lý thuyết sau đó Lý thuyết về sự tăng trưởng và các lý thuyết sau đó Robert M. Solow Bài diễn thuyết đoạt giải. Phiên Dịch: Hồ Phương Nga Tôi đã được kể rằng tất cả mọi người đều có những giấc mơ, nhưng một vài người có thói quen quên chúng ngay trước lúc tỉnh dậy. Điều này dường như cũng xảy ra với tôi. Bởi vậy tôi không biết liệu tôi đã bao giờ mơ thấy được nói bài diễn thuyết này chưa. Tôi biết rằng tôi đã ở trong căn phòng này trước kia nhưng đó là trong cuộc sống thực khi tôi đang thức. Nếu tôi đã từng đọc bài diễn thuyết này trong giấc mơ của tôi, thì chắc chắn đề tài sẽ là lý thuyết vể sự tăng trưởng kinh tế. Tôi được nhắc nhở rằng chủ đề của bài diễn thuyết nên 'về hoặc liên quan tới nghiên cứu đã được giải thưởng'. Điều đó là rất rõ ràng. Nhưng tôi thậm chí không cần mất thời gian với cụm từ 'có liên quan tới'. Lý thuyết về sự tăng trưởng chính xác là những gì tôi muốn nói: bởi vì chính bản thân nó, vì những thành tựu của nó, và vì những lỗ hổng vẫn còn phải tiếp tục được lấp và đây cũng là dịp để truyền bá một vài tư tưởng về bản chất của những nghiên cứu kinh tế vĩ mô mang tính lý thuyết cũng như những nghiên cứu mang tính thực tế. Lý thuyết về sự tăng trưởng không bắt đầu bằng những bài báo của tôi vào năm 1956 và 1957, và tất nhiên nó cũng không kết thúc ở đó. Có thể nó bắt đầu bằng 'Sự giàu có của những quốc gia', mà thậm chí trước Adam Smith vấn đề này cũng có thể đã được nghiên cứu. Hơn thế nữa, vào những năm 50, tôi nghiên cứu theo hướng đã được vạch ra bởi Roy Harrod, Evsey Domar, và cũng bởi Arthur Lewis mặc dù hoàn cảnh kinh tế thời gian đó hơi khác so với trước. Trên thực tế, tôi đang cố gắng nghiên cứu theo hướng của họ và sửa đi vài điểm mà tôi cảm thấy không hài lòng trong công việc của họ. Tôi sẽ cố gắng giải thích tôi muốn nói gì trong một vài từ. Harrod và Domar dường như đã trả lời một câu hỏi rất dễ hiểu: khi nào thì một nền kinh tế có khả năng tăng trưởng bền vững ở một tốc độ ổn định? Họ đã đi bằng nhiều con đường đáng chú ý khác nhau để đến một câu trả lời kinh điển và đơn giản: tỷ lệ tiết kiệm quốc gia (phần thu nhập được tiết kiệm) phải bằng với tích số của tỷ lệ vốn sản lượng và tỷ lệ phát triển của lực lượng lao động (có hiệu quả). Sau đó và chỉ sau đó thì nền kinh tế mới giữ tiền vốn của máy móc và thiết bị cân bằng với sự cung cấp lao động của nó, để cho sự tăng trưởng bền vững có thể tiếp tục mà không vấp phải sự thiếu lao động ở một bên hoặc là sự dư thừa lao động và thất nghiệp gia tăng ở bên kia. Họ đã đúng khi đưa ra kết luận chung này. Điều tôi thấy băn khoăn ở đây là bởi họ tiến hành nghiên cứu vấn đề này dựa trên sự thừa nhận là tất cả ba thành phần then chốt như là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia, tỷ lệ phát triển của lực lượng lao động, và tỷ lệ vốn sản lượng, cả ba thành phần này đều là là những đại lượng bất biến, những vấn đề của tự nhiên. Tỷ lệ tiết kiệm là vấn đề về sở thích, tỷ lệ phát triển của sự cung cấp lao động là vấn đề về xã hôi nhân khẩu học, tỷ lệ sản lượng vốn là vấn đề về kỹ thuật. Tất cả những thành phần này như chúng ta đều biết đều có thể thay đổi theo thời gian, nhưng chúng thay đổi không thường xuyên và ít nhiều mang tính độc lập. Tuy nhiên trong trường hợp đó, khả năng tăng trưởng bền vững sẽ là một sự may mắn khó tin được. Hầu hết các nền kinh tế, phần lớn thời gian, không có đường phát triển cân bằng. Lịch sử những nền kinh tế tư bản nên là một sự xen kẽ nhau của những giai đoạn dài thất nghiệp và thiếu lao động trầm trọng. Trên thực tế, lý thuyết đã đưa ra một điều gì đó thậm chí còn sâu sắc hơn. Đặc biệt, những tác phẩm của Harrod chứa đứng những lời tuyên bố vấn chưa được nghiên cứu đầy đủ rằng sự tăng trưởng bền vững trong bất cứ trường hợp nào cũng là một loại không ổn định của sự cân bằng: bất cứ sự bắt đầu nào từ nó sẽ bị thổi phồng lên một cách quá đáng bởi một quá trình phụ thuộc chủ yếu vào sự khái quát hoá mơ hồ về hành vi kinh doanh. Quý vị có lẽ vẫn nhớ tới quyển sách 'Chu kỳ kinh doanh' của John Hicks, quyển sách này dựa vào mô hình sự tăng trưởng của Harrod, nó cần viện nhiều hơn nữa những dẫn chứng mức trần việc làm đầy đủ khiến cho hoạt động kinh tế bị sa sút và mức sàn đầu tư bằng không để nền kinh tế được cải thiện. Nếu không thì nền kinh tế kiểu mẫu sẽ bị mất đi. Cần phải lưu ý rằng bài tiểu luận của Harrod được xuất bản năm 1939 và bài báo đầu tiên của Domar là vào năm 1946. Lý thuyết về sự tăng trưởng, cũng giống như những lý thuyết khác trong kinh tế học vĩ mô, là một sản phẩm của thời kỳ suy thoái kinh tế vào những năm 30 và của chiến tranh mà cuối cùng cũng chấm dứt lý thuyết này. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên tôi cảm thấy dường như những điều nêu ra từ mô hình này có cái gì đó sai. Một đoàn thám hiểm từ Sao Hoả đến Trái đất nếu có đọc tài liệu này cũng sẽ chỉ mong tìm thấy mảnh vỡ của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đã bị vỡ vụn từ rất lâu rồi. Lịch sử kinh tế thực chất là một bản ghi chép của những dao động cũng như sự tăng trưởng, nhưng hầu hết những chu kỳ kinh doanh dường như có giới hạn của chính nó. Tăng trưởng liên tục, mặc dù bị gián đoạn, cũng không phải là một chuyện hiếm. Mô hình của HarrodDomar có một ẩn ý nào khác nữa dường như không có căn cứ. Nếu điều kiện cho một sự tăng trưởng bền vững là tỷ lệ tiết kiệm bằng với tích số của tỷ lệ phát triển việc làm và tỷ số vốn sản được quyết định bởi kỹ thuật, thì một công thức để nhân đôi tỷ lệ tăng trưởng của một nền kinh tế thặng dư chỉ đơn giản là nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm, có thể là nhờ vào ngân quỹ chung. Điều này hoàn toàn không phải là đơn giản: như chúng ta đều biết tuy tôi không chắc rằng hiện giờ chúng ta vẫn biết rằng nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm phía trước sẽ không nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm sau trừ phi có một điều gì đó quan tâm đến tỷ lệ đầu tư trước cùng lúc đó. (Tôi hy vọng những cụm từ tiếng Latin mới mẻ này vẫn còn được hiểu tại Stockholm v ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lý thuyết về sự tăng trưởng và các lý thuyết sau đó Lý thuyết về sự tăng trưởng và các lý thuyết sau đó Robert M. Solow Bài diễn thuyết đoạt giải. Phiên Dịch: Hồ Phương Nga Tôi đã được kể rằng tất cả mọi người đều có những giấc mơ, nhưng một vài người có thói quen quên chúng ngay trước lúc tỉnh dậy. Điều này dường như cũng xảy ra với tôi. Bởi vậy tôi không biết liệu tôi đã bao giờ mơ thấy được nói bài diễn thuyết này chưa. Tôi biết rằng tôi đã ở trong căn phòng này trước kia nhưng đó là trong cuộc sống thực khi tôi đang thức. Nếu tôi đã từng đọc bài diễn thuyết này trong giấc mơ của tôi, thì chắc chắn đề tài sẽ là lý thuyết vể sự tăng trưởng kinh tế. Tôi được nhắc nhở rằng chủ đề của bài diễn thuyết nên 'về hoặc liên quan tới nghiên cứu đã được giải thưởng'. Điều đó là rất rõ ràng. Nhưng tôi thậm chí không cần mất thời gian với cụm từ 'có liên quan tới'. Lý thuyết về sự tăng trưởng chính xác là những gì tôi muốn nói: bởi vì chính bản thân nó, vì những thành tựu của nó, và vì những lỗ hổng vẫn còn phải tiếp tục được lấp và đây cũng là dịp để truyền bá một vài tư tưởng về bản chất của những nghiên cứu kinh tế vĩ mô mang tính lý thuyết cũng như những nghiên cứu mang tính thực tế. Lý thuyết về sự tăng trưởng không bắt đầu bằng những bài báo của tôi vào năm 1956 và 1957, và tất nhiên nó cũng không kết thúc ở đó. Có thể nó bắt đầu bằng 'Sự giàu có của những quốc gia', mà thậm chí trước Adam Smith vấn đề này cũng có thể đã được nghiên cứu. Hơn thế nữa, vào những năm 50, tôi nghiên cứu theo hướng đã được vạch ra bởi Roy Harrod, Evsey Domar, và cũng bởi Arthur Lewis mặc dù hoàn cảnh kinh tế thời gian đó hơi khác so với trước. Trên thực tế, tôi đang cố gắng nghiên cứu theo hướng của họ và sửa đi vài điểm mà tôi cảm thấy không hài lòng trong công việc của họ. Tôi sẽ cố gắng giải thích tôi muốn nói gì trong một vài từ. Harrod và Domar dường như đã trả lời một câu hỏi rất dễ hiểu: khi nào thì một nền kinh tế có khả năng tăng trưởng bền vững ở một tốc độ ổn định? Họ đã đi bằng nhiều con đường đáng chú ý khác nhau để đến một câu trả lời kinh điển và đơn giản: tỷ lệ tiết kiệm quốc gia (phần thu nhập được tiết kiệm) phải bằng với tích số của tỷ lệ vốn sản lượng và tỷ lệ phát triển của lực lượng lao động (có hiệu quả). Sau đó và chỉ sau đó thì nền kinh tế mới giữ tiền vốn của máy móc và thiết bị cân bằng với sự cung cấp lao động của nó, để cho sự tăng trưởng bền vững có thể tiếp tục mà không vấp phải sự thiếu lao động ở một bên hoặc là sự dư thừa lao động và thất nghiệp gia tăng ở bên kia. Họ đã đúng khi đưa ra kết luận chung này. Điều tôi thấy băn khoăn ở đây là bởi họ tiến hành nghiên cứu vấn đề này dựa trên sự thừa nhận là tất cả ba thành phần then chốt như là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia, tỷ lệ phát triển của lực lượng lao động, và tỷ lệ vốn sản lượng, cả ba thành phần này đều là là những đại lượng bất biến, những vấn đề của tự nhiên. Tỷ lệ tiết kiệm là vấn đề về sở thích, tỷ lệ phát triển của sự cung cấp lao động là vấn đề về xã hôi nhân khẩu học, tỷ lệ sản lượng vốn là vấn đề về kỹ thuật. Tất cả những thành phần này như chúng ta đều biết đều có thể thay đổi theo thời gian, nhưng chúng thay đổi không thường xuyên và ít nhiều mang tính độc lập. Tuy nhiên trong trường hợp đó, khả năng tăng trưởng bền vững sẽ là một sự may mắn khó tin được. Hầu hết các nền kinh tế, phần lớn thời gian, không có đường phát triển cân bằng. Lịch sử những nền kinh tế tư bản nên là một sự xen kẽ nhau của những giai đoạn dài thất nghiệp và thiếu lao động trầm trọng. Trên thực tế, lý thuyết đã đưa ra một điều gì đó thậm chí còn sâu sắc hơn. Đặc biệt, những tác phẩm của Harrod chứa đứng những lời tuyên bố vấn chưa được nghiên cứu đầy đủ rằng sự tăng trưởng bền vững trong bất cứ trường hợp nào cũng là một loại không ổn định của sự cân bằng: bất cứ sự bắt đầu nào từ nó sẽ bị thổi phồng lên một cách quá đáng bởi một quá trình phụ thuộc chủ yếu vào sự khái quát hoá mơ hồ về hành vi kinh doanh. Quý vị có lẽ vẫn nhớ tới quyển sách 'Chu kỳ kinh doanh' của John Hicks, quyển sách này dựa vào mô hình sự tăng trưởng của Harrod, nó cần viện nhiều hơn nữa những dẫn chứng mức trần việc làm đầy đủ khiến cho hoạt động kinh tế bị sa sút và mức sàn đầu tư bằng không để nền kinh tế được cải thiện. Nếu không thì nền kinh tế kiểu mẫu sẽ bị mất đi. Cần phải lưu ý rằng bài tiểu luận của Harrod được xuất bản năm 1939 và bài báo đầu tiên của Domar là vào năm 1946. Lý thuyết về sự tăng trưởng, cũng giống như những lý thuyết khác trong kinh tế học vĩ mô, là một sản phẩm của thời kỳ suy thoái kinh tế vào những năm 30 và của chiến tranh mà cuối cùng cũng chấm dứt lý thuyết này. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên tôi cảm thấy dường như những điều nêu ra từ mô hình này có cái gì đó sai. Một đoàn thám hiểm từ Sao Hoả đến Trái đất nếu có đọc tài liệu này cũng sẽ chỉ mong tìm thấy mảnh vỡ của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đã bị vỡ vụn từ rất lâu rồi. Lịch sử kinh tế thực chất là một bản ghi chép của những dao động cũng như sự tăng trưởng, nhưng hầu hết những chu kỳ kinh doanh dường như có giới hạn của chính nó. Tăng trưởng liên tục, mặc dù bị gián đoạn, cũng không phải là một chuyện hiếm. Mô hình của HarrodDomar có một ẩn ý nào khác nữa dường như không có căn cứ. Nếu điều kiện cho một sự tăng trưởng bền vững là tỷ lệ tiết kiệm bằng với tích số của tỷ lệ phát triển việc làm và tỷ số vốn sản được quyết định bởi kỹ thuật, thì một công thức để nhân đôi tỷ lệ tăng trưởng của một nền kinh tế thặng dư chỉ đơn giản là nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm, có thể là nhờ vào ngân quỹ chung. Điều này hoàn toàn không phải là đơn giản: như chúng ta đều biết tuy tôi không chắc rằng hiện giờ chúng ta vẫn biết rằng nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm phía trước sẽ không nhân đôi tỷ lệ tiết kiệm sau trừ phi có một điều gì đó quan tâm đến tỷ lệ đầu tư trước cùng lúc đó. (Tôi hy vọng những cụm từ tiếng Latin mới mẻ này vẫn còn được hiểu tại Stockholm v ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Lý thuyết kinh tế sự tăng trưởng Harrod và Domar mô hình kinh tế thị trường kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghiên cứu lý thuyết kinh tế: Phần 1
81 trang 221 0 0 -
Lý thuyết kinh tế và những vấn đề cơ bản: Phần 2
132 trang 188 0 0 -
Bài giảng môn Nguyên lý kinh tế vĩ mô: Chương 2 - Lưu Thị Phượng
51 trang 180 0 0 -
Tiểu luận Về mô hình tổng công ty
20 trang 142 0 0 -
Giáo trình Kinh tế vĩ mô (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
61 trang 133 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 1
212 trang 132 0 0 -
21 trang 129 0 0
-
Kinh kế học vi mô 2 - Chương 5: Rủi ro bất định và lý thuyết trò chơi
trang 97 0 0 -
Giáo trình môn học Kinh tế vi mô - Phần 2
45 trang 88 0 0 -
16 trang 84 0 0