Mãn Giác và bài thơ thiền
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 171.93 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mãn Giác vốn tên là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách. Chưa rõ cái tên An Cách đến lúc nào thì mất đi, nhưng cái tên Lũng Triền thì mãi thế kỷ XVIII vẫn còn. Đó là một phần đất thuộc huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Theo các nhà địa lý học lịch s]r Hà Bắc thì ngày nay đó chính là xã Lũng Khê, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (1). Thật ra, căn cứ vào sự trọng đãi của các vua nhà Lý đối với Mãn Giác cũng có thể đoán vị Thiền...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mãn Giác và bài thơ thiền Mãn Giác và bài thơ thiềnMãn Giác vốn tên là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách. Chưa rõcái tên An Cách đến lúc nào thì mất đi, nhưng cái tên Lũng Triền thì mãi thế kỷXVIII vẫn còn. Đó là một phần đất thuộc huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Theocác nhà địa lý học lịch s]r Hà Bắc thì ngày nay đó chính là xã Lũng Khê, huyệnThuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (1). Thật ra, căn cứ vào sự trọng đãi của các vua nhàLý đối với Mãn Giác cũng có thể đoán vị Thiền sư này là một người thuộc dònghoàng tộc, nghĩa là phải sinh trưởng trong vùng đất quanh miền Từ Sơn - ĐìnhBảng, nơi phát tích của nhà Lý, chứ không thể ở đâu khác.Thân phụ Mãn giác là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dướihai triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128), và chắc làrất thông hiểu chữ nghĩa, vì đã được Triều đình cử làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộViệt Nam đi sang Trung Quốc vào năm 1073 để báo tin Lý Thánh Tông mất. Thếnhưng, mặc dù xuất thân trong một gia đình như vậy, và mặc dù cậu bé Lý Trườngđược vua Lý Nhân Tông rất mực sủng ái, cho vào cung học tập từ nhỏ, lại đặt têncho là Hoài Tín, Lý Trường vẫn không đi theo con đường của cha. Ông không trởthành một người cận thần của nhà vua mà tự chọn lấy con đường mình thích: rènluyện kiến thức Phật giáo và Nho giáo đến mức uyên bác, rồi kế thừa tâm ấn củaThiền sư Quảng Trí ở chùa quán Đính, núi Không Lộ, đi vân du khắp nơi, trởthành một vị Thiền sư tên tuổi, có rất đông học trò, được tôn là người tiêu biểu chothế hệ thứ tám, dòng Thiền Quan bích.Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Mãn Giác chỉ để lại một tác phẩm duynhất, nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đếnnay. Đó là bài kệ có tính cách di chúc viết dặn lại học trò trước lúc mất, một bàithơ đã gây cho rất nhiều thế hệ bạn đọc trong gần chín thế kỷ qua những cảm xúctrái ngược, và cho đến nay, sự tranh luận vẫn chưa phải đã ngã ngũ.Bài kệ như sau:Xuân khứ bách hoa lạc,Xuân đáo bách hoa khai.Sự trục nhãn tiền quá,Lão tòng đầu thượng lai.Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!Sau đây là phần dịch nghĩa của chúng tôi:Mỗi năm khi mùa xuân qua đi, trăm hoa đều rơi rụng,Nhưng mỗi năm mùa xuân lại tới và trăm hoa lại nở.Sự việc đuổi nhau qua trước mắt,Cái già sồng sộc tới trên đầu,Tuy nhiên, chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết,Đêm qua đây thôi, trước sân, một cành mai lại nở.Có thể nói, không ai là không có một ấn tượng mạnh mẽ, một sự xao xuyến với tấtcả tâm linh, khi đọc bài thơ. Nhưng cắt nghĩa sự xao xuyến đó nh ư thế nào thì mỗingười một khác. Bảo rằng người đọc bị bài thơ của Mãn Giác chinh phục là vìbằng tâm thức nghiệm sinh mà mỗi người vẫn có, chúng ta lĩnh hội được trong bàithơ đó những phát hiện tinh vi của tác giả về cái quy luật tiến hóa của sự sống vẫndiễn ra không ngừng, nghe cũng thật có lý. Nhưng bảo rằng người đọc rung độngchỉ vì bị cấu trúc nghệ thuật của bài thơ đánh lừa, vì tác giả khéo hình tượng hóathời gian và đời người bằng hai đại lượng rất giàu thi hứng là xuân và hoa, lạikhéo đặt chúng trong mối quan hệ vừa thuận chiều, vừa có vẻ như tương phản, chứbản thân cách lý giải sự tiến hóa của sự sống trong bài thơ chưa có gì vượt khỏiquan điểm tuần hoàn, hình như cũng không phải là sai.Vậy thực chất bài thơ là như thế nào? ***Chắc chắn chúng ta đều nhất trí với nhau: đây là một tác phẩm giải thích về cáisinh cái tử. Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi, và cóchết, cũng là chuyện thông thường. Bốn câu đầu rõ ràng nói lên ý đó, cũng tức làlàm cho người đọc hiểu và cảm thông một cách thanh thản với tác giả, khi tác giảđang trên giường bệnh, đang ở điểm mút cuối của cái hiện kiếp của mình. Sự cảmthông này dĩ nhiên buộc phải dựa trên triết lý tuần hoàn của nhà Phật. Vũ trụ nàylà tuần hoàn, là vĩnh viễn sinh sinh hóa theo luật nhân quả, và người đời - sắc thânmà mỗi con người mang lấy, do nghiệp của kiếp trước chuyển hóa mà có, cũng chỉlà một trong những hình thức biểu hiện lẽ tuần hoàn của vũ trụ, nó là sự biến diệtkhông tránh khỏi và không trừ một vật gì ở trên đời này:Xuân ruổi, trăm hoa rụng,Xuân tới, trăm hoa cười.Trước mắt, việc đi mãi,Trên đầu già đến rồi... (2)Chấp nhận lẽ tuần hoàn, để đừng có những cuồng vọng về sự trường sinh bất tửcủa cá nhân, đừng bị lục tặc hành hạ, làm cho tâm trở nên rối loạn - âu đó cũng làmột biện pháp khai phóng tâm lý rất hay của người theo đạo Thiền, nó giúp ngườita dẹp bớt đi bao nhiêu tham, sân, si, ái, ố dục vô ích, không những làm khổ mìnhcòn làm khổ lây rất nhiều đồng loại khác nữa. Chỉ xét ở bình diện đầu tiên ấy, bàithơ cũng đã có một tác dụng cảnh tỉnh không nhỏ, nhất là nếu ta mở rộng phạm vitiếp nhận đối với nó, nhìn tới cả những lực lượng đang nắm quyền lực trong mộtxã hội, những lực lượng bao giờ cũng có thói quen sinh hoạt phi Thiền cực đoannhất, và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mãn Giác và bài thơ thiền Mãn Giác và bài thơ thiềnMãn Giác vốn tên là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách. Chưa rõcái tên An Cách đến lúc nào thì mất đi, nhưng cái tên Lũng Triền thì mãi thế kỷXVIII vẫn còn. Đó là một phần đất thuộc huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Theocác nhà địa lý học lịch s]r Hà Bắc thì ngày nay đó chính là xã Lũng Khê, huyệnThuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (1). Thật ra, căn cứ vào sự trọng đãi của các vua nhàLý đối với Mãn Giác cũng có thể đoán vị Thiền sư này là một người thuộc dònghoàng tộc, nghĩa là phải sinh trưởng trong vùng đất quanh miền Từ Sơn - ĐìnhBảng, nơi phát tích của nhà Lý, chứ không thể ở đâu khác.Thân phụ Mãn giác là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dướihai triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128), và chắc làrất thông hiểu chữ nghĩa, vì đã được Triều đình cử làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộViệt Nam đi sang Trung Quốc vào năm 1073 để báo tin Lý Thánh Tông mất. Thếnhưng, mặc dù xuất thân trong một gia đình như vậy, và mặc dù cậu bé Lý Trườngđược vua Lý Nhân Tông rất mực sủng ái, cho vào cung học tập từ nhỏ, lại đặt têncho là Hoài Tín, Lý Trường vẫn không đi theo con đường của cha. Ông không trởthành một người cận thần của nhà vua mà tự chọn lấy con đường mình thích: rènluyện kiến thức Phật giáo và Nho giáo đến mức uyên bác, rồi kế thừa tâm ấn củaThiền sư Quảng Trí ở chùa quán Đính, núi Không Lộ, đi vân du khắp nơi, trởthành một vị Thiền sư tên tuổi, có rất đông học trò, được tôn là người tiêu biểu chothế hệ thứ tám, dòng Thiền Quan bích.Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Mãn Giác chỉ để lại một tác phẩm duynhất, nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đếnnay. Đó là bài kệ có tính cách di chúc viết dặn lại học trò trước lúc mất, một bàithơ đã gây cho rất nhiều thế hệ bạn đọc trong gần chín thế kỷ qua những cảm xúctrái ngược, và cho đến nay, sự tranh luận vẫn chưa phải đã ngã ngũ.Bài kệ như sau:Xuân khứ bách hoa lạc,Xuân đáo bách hoa khai.Sự trục nhãn tiền quá,Lão tòng đầu thượng lai.Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!Sau đây là phần dịch nghĩa của chúng tôi:Mỗi năm khi mùa xuân qua đi, trăm hoa đều rơi rụng,Nhưng mỗi năm mùa xuân lại tới và trăm hoa lại nở.Sự việc đuổi nhau qua trước mắt,Cái già sồng sộc tới trên đầu,Tuy nhiên, chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết,Đêm qua đây thôi, trước sân, một cành mai lại nở.Có thể nói, không ai là không có một ấn tượng mạnh mẽ, một sự xao xuyến với tấtcả tâm linh, khi đọc bài thơ. Nhưng cắt nghĩa sự xao xuyến đó nh ư thế nào thì mỗingười một khác. Bảo rằng người đọc bị bài thơ của Mãn Giác chinh phục là vìbằng tâm thức nghiệm sinh mà mỗi người vẫn có, chúng ta lĩnh hội được trong bàithơ đó những phát hiện tinh vi của tác giả về cái quy luật tiến hóa của sự sống vẫndiễn ra không ngừng, nghe cũng thật có lý. Nhưng bảo rằng người đọc rung độngchỉ vì bị cấu trúc nghệ thuật của bài thơ đánh lừa, vì tác giả khéo hình tượng hóathời gian và đời người bằng hai đại lượng rất giàu thi hứng là xuân và hoa, lạikhéo đặt chúng trong mối quan hệ vừa thuận chiều, vừa có vẻ như tương phản, chứbản thân cách lý giải sự tiến hóa của sự sống trong bài thơ chưa có gì vượt khỏiquan điểm tuần hoàn, hình như cũng không phải là sai.Vậy thực chất bài thơ là như thế nào? ***Chắc chắn chúng ta đều nhất trí với nhau: đây là một tác phẩm giải thích về cáisinh cái tử. Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi, và cóchết, cũng là chuyện thông thường. Bốn câu đầu rõ ràng nói lên ý đó, cũng tức làlàm cho người đọc hiểu và cảm thông một cách thanh thản với tác giả, khi tác giảđang trên giường bệnh, đang ở điểm mút cuối của cái hiện kiếp của mình. Sự cảmthông này dĩ nhiên buộc phải dựa trên triết lý tuần hoàn của nhà Phật. Vũ trụ nàylà tuần hoàn, là vĩnh viễn sinh sinh hóa theo luật nhân quả, và người đời - sắc thânmà mỗi con người mang lấy, do nghiệp của kiếp trước chuyển hóa mà có, cũng chỉlà một trong những hình thức biểu hiện lẽ tuần hoàn của vũ trụ, nó là sự biến diệtkhông tránh khỏi và không trừ một vật gì ở trên đời này:Xuân ruổi, trăm hoa rụng,Xuân tới, trăm hoa cười.Trước mắt, việc đi mãi,Trên đầu già đến rồi... (2)Chấp nhận lẽ tuần hoàn, để đừng có những cuồng vọng về sự trường sinh bất tửcủa cá nhân, đừng bị lục tặc hành hạ, làm cho tâm trở nên rối loạn - âu đó cũng làmột biện pháp khai phóng tâm lý rất hay của người theo đạo Thiền, nó giúp ngườita dẹp bớt đi bao nhiêu tham, sân, si, ái, ố dục vô ích, không những làm khổ mìnhcòn làm khổ lây rất nhiều đồng loại khác nữa. Chỉ xét ở bình diện đầu tiên ấy, bàithơ cũng đã có một tác dụng cảnh tỉnh không nhỏ, nhất là nếu ta mở rộng phạm vitiếp nhận đối với nó, nhìn tới cả những lực lượng đang nắm quyền lực trong mộtxã hội, những lực lượng bao giờ cũng có thói quen sinh hoạt phi Thiền cực đoannhất, và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa việt nam lịch sử việt nam sự phát triển của việt nam nguồn gốc nước việt nam hình thành nước việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 379 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 147 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 135 0 0 -
189 trang 131 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 122 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 116 0 0 -
Tìm hiểu Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á: Phần 2
97 trang 109 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 108 0 0