Danh mục

Mang thai - những điều cần biết

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 104.87 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhiều phụ nữ mang thai do sợ mất thân hình thon thả nên đã tự ý ăn kiêng. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của họ và thai nhi, đồng thời làm tăng nguy cơ sinh non. Trong số những phụ nữ đang mang thai, 30-50% bị thiếu vitamin B1 và B6, 70% thiếu axit folic và 60% thiếu chất sắt.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mang thai - những điều cần biết Mang thai - những điều cần biết Khi có thai, cần tăng bao nhiêu cân? - Người mảnh khảnh: 12-18 kg. - Tạng trung bình: 11,5-16 kg. - Người nặng cân: Chỉ tăng 7 kg Không nên ăn kiêng trong thời gian thai nghén Nhiều phụ nữ mang thai do sợ mất thân hình thon thả nên đã tự ý ăn kiêng.Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của họ và thai nhi, đồng thời làmtăng nguy cơ sinh non. Trong số những phụ nữ đang mang thai, 30-50% bị thiếu vitamin B1 và B6,70% thiếu axit folic và 60% thiếu chất sắt. Vì vậy, một chế độ ăn uống phong phúvà cân bằng là rất cần thiết cho cả mẹ và con. Nếu mẹ kiêng khem hay ăn uống không hợp lý, thai nhi sẽ bị suy dinhdưỡng, thiếu máu và thiếu canxi. Những trẻ suy dinh dưỡng trong bụng mẹ khisinh ra đều nhẹ cân, có chiều cao dưới trung bình và khi lớn lên có nhiều nguy cơmắc bệnh tiểu đường, xơ vữa động mạch, cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa và rốiloạn nội tiết. Những trẻ này cũng hay đau ốm ở năm đầu đời vì khả năng miễndịch kém. Ngoài ra, với những bà mẹ có tỷ lệ CRH (một hoóc môn vùng dưới đồi)cao, việc kiêng khem hoặc ăn uống nghèo năng lượng rất dễ dẫn tới sinh non. Khi chưa thụ thai, việc ăn kiêng cũng làm tăng nguy cơ hiếm muộn. Theomột thống kê của Pháp, trong các phụ nữ đến khám và điều trị hiếm muộn,15-20%mắc chứng ăn vô độ hoặc chán ăn. Trong các phụ nữ đi khám do kinh nguyệtkhông đều có 40% ăn uống không cân bằng. Cứ 4 phụ nữ kiêng ăn lại có 1 ngườigặp khó khăn trong sinh đẻ. Các nghiên cứu mới đây cho biết, đối với những phụnữ mảnh khảnh, việc kiêng ăn, giảm thức ăn giàu năng lượng và chất béo trong 4ngày có thể tạo ra nguy cơ rối loạn hoóc môn. Vì vây, phụ nữ trước và trong khi mang thai cần ăn uống đầy đủ, không nêndùng dưới 1.500 calo/ngày. Cơ cấu các bữa ăn như sau: - Bữa sáng: Cần cung cấp 20-30% lượng calo của một ngày. - Bữa trưa: Cần có rau sống, rau cải tươi (để bảo đảm đủ lượng vitamin),rau luộc (để giúp nhuận tràng) và chất khoáng. Nên tiếp nhận nguồn protein từ cá,thịt, trứng để góp phần xây dựng các tế bào của thai nhi. Các thức ăn chứa gluxit(như cơm, các chất bột) cũng rất cần thiết cho sự phát triển hài hòa của bào thai vàtạo cảm giác no. - Bữa tối: Được cấu tạo như bữa trưa nhưng nhẹ hơn. Cần ăn nhiều trái cây,2-3 loại trái cây/ngày. Ở các tháng đầu của thai kỳ, do buồn nôn nên các bà thường không thích ănuống. Vì vậy, cần ưu tiên các thức ăn nhẹ, dễ tiêu, giàu canxi và protein như sữa,sữa chua. Chất béo phải chiếm 30% năng lượng cung cấp, nghĩa là khoảng 60-80g/ngày. Dù muốn hạn chế sự tăng cân, thai phụ vẫn phải ăn 3 th ìa cà phê dầu/ngày(tương đương với 15 g). Mỗi tuần nên ăn cá béo (cá thu, cá mòi, cá bông lau) 2lần. Cá béo chứa nhiều axit béo quan trọng như omega - 3, rất cần thiết cho sựphát triển và hoàn chỉnh não em bé. Cần nhớ rằng sự tăng cân của mẹ trong các tháng cuối của thai kỳ rất có íchcho thai nhi (cứ yên tâm vì thể trọng của mẹ sẽ dễ dàng giảm đi sau khi sinh). Tuynhiên, để giúp bào thai phát triển tốt, việc ăn uống đầy đủ phải được thực hiệnngay từ đầu thai kỳ. Ở các tháng đầu, thai phụ đều bị ốm nghén n ên nếu không lêncân được thì cũng không nên lo lắng quá mức. Tại sao khi có thai cần uống axit folic? Axit folic còn gọi là vitamin B9, rất cần thiết cho sự tạo hồng cầu, quá trìnhbiến dưỡng protein cũng như sự phân chia tế bào. Axit folic cũng cần cho sự tạosữa của người mẹ, đặc biệt là giúp ngăn ngừa dị tật bẩm sinh trong giai đoạn đầucủa thai kỳ. Nhu cầu về axit folic của người trưởng thành là 0,18-0,2 mg/ngày và tănggấp đôi khi có thai hoặc cho con bú. Nó có nhiều trong những loại rau quả có màuđậm như cà rốt, cà chua, bơ, dưa hấu… Với liều bình thường kể trên, axit folic hầu như không gây tác dụng phụ,phụ nữ có thai nào cũng có thể uống, trừ những người bị ung thư vì chất này giúpcho tế bào ung thư phát triển mạnh. Axit folic không gây sẩy thai Nghiên cứu thực hiện trên 24.000 thai phụ Trung Quốc do các nhà khoahọc Mỹ và Trung Quốc tiến hành cho thấy, axit folic ( còn gọi là vitamin B9 )không hề làm tăng nguy cơ sẩy thai, như kết quả một cuộc nghiên cứu đã đượcnhiều người công nhận trước đó. Tỷ lệ sẩy thai ở những thai phụ uống 400 microgam axit folic/ngày vànhững người không dùng thuốc này là như nhau. Từ đó, nhóm nghiên cứu đưa ralời khuyên: Phụ nữ có thai nên uống axit folic và dùng nhiều thức ăn có chất này,vì axit folic đóng vai trò chủ chốt trong việc bảo vệ thai nhi khỏi bị khuyết tật cộtsống. Axit folic có nhiều trong trái cây họ chanh, đậu, rau, gan và các sản phẩmtừ ngũ cốc. Ăn nhiều ngũ cốc, rau xanh để sinh con không bị dị tật Sản phụ tiêu thụ nhiều axit folic (một dạng vitamin B có nhiều trong ngũcốc và rau xanh) sẽ giảm được đáng kể nguy cơ sinh con bị dị tật ở vùng cột sốngvà não. Các nhà nghiên c ứu tại Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa bệnh tật củaMỹ cho biết. Sau khi thu thập thông tin về trẻ sơ sinh trong vòng 10 năm, các nhà nghiêncứu phát hiện rằng nhờ chính sách tăng c ường thêm lượng axit folic vào các sảnphẩm ngũ cốc, tỷ lệ trẻ sơ sinh bị khuyết tật cột sống và não giảm 19%, riêng tậtnứt đốt sống ở trẻ giảm đến 23%. Phụ nữ dùng axit folic bổ sung dễ sinh con đôi Việc bổ sung axit folic ( một vitamin thuộc nhóm B ) mà nhiều phụ nữ vẫnthực hiện để giảm nguy cơ sinh con mắc chứng nứt đốt sống, lại làm tăng 2 lầnkhả năng sinh con đôi. Đó là kết luận của các nhà khoa học Thụy Điển, đăng trêntuần báo Khoa học Mới của Anh số ngày 28/7. Nghiên cứu trên gần 2.600 phụ nữ đã dùng axit folic bổ sung cho thấy tỷ lệsinh đôi ở những người này là 2,8%, tăng gần gấp đôi so với toàn bộ quần thể(1,5%). Tại Mỹ, từ năm 1998, vi ...

Tài liệu được xem nhiều: