Danh mục

Mày đay (Urtcaire – Urticaria – Hives - Wheals) (Kỳ 1)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 284.11 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mày đay là một phản ứng viêm của da, có cơ chế phức tạp, trong đó có sự can thiệp của chất trung gian hóa học là Histamin. Tuy là một bệnh da phổ biến, rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm. Cứ 100 người, đến 15-20 người (15-20%), trong suốt cuộc đời, thế nào cũng có lúc nổi mề đay, lắm khi tái phát nhiều lần. Phụ nữ dễ nổi mề đay hơn đàn ông. Mề đay xảy ra ở lứa tuổi 20 đến 40 thường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mày đay (Urtcaire – Urticaria – Hives - Wheals) (Kỳ 1) Mày đay (Urtcaire – Urticaria – Hives - Wheals) (Kỳ 1) Mày đay là một phản ứng viêm của da, có cơ chế phức tạp, trong đó có sựcan thiệp của chất trung gian hóa học là Histamin. Tuy là một bệnh da phổ biến,rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xétnghiệm. Cứ 100 người, đến 15-20 người (15-20%), trong suốt cuộc đời, thế nàocũng có lúc nổi mề đay, lắm khi tái phát nhiều lần. Phụ nữ dễ nổi mề đay hơn đànông. Mề đay xảy ra ở lứa tuổi 20 đến 40 thường nhất. Có nhiều yếu tố gây bệnh (bên trong cơ thể, bên ngoài, cơ địa) và trên mộtbệnh nhân, nhiều khi không chỉ một mà nhiều yếu tố kết hợp hay không tìm đượcnguyên nhân nào gây ra mề đay. I. DIỄN TIẾN BỆNH 1. Cấp tính: Xảy ra đột ngột và biến mất nhanh sau vài giờ hoặc vài ngày,hay gặp ở người trẻ và nguyên nhân thường gặp là do thức ăn hoặc thuốc. Trườnghợp nặng, người nổi mề đay cấp tính có thể bị choáng váng, ngất xỉu do áp huyếtxuống thấp (gọi là cơn kích-xúc anaphylaxis). 2. Mạn tính: Kéo dài trên 6 tuần, đa số là tự phát (vô căn), trường hợp nàyphải dựa vào những nghiên cứu thật công phu, tỉ mỉ mới có thể tìm được nguyênnhân, thường không do dị ứng. Thuốc chống dị ứng chỉ giải quyết được triệu chứng tạm thời. Muốn điều trịhiệu quả thì cái chính là phải tìm cho ra nguyên nhân, đôi khi không mấy dễ dàng. II. CÁC DẠNG MÀY ĐAY 1. Mày đay thông thường Bệnh bắt đầu đột ngột, rầm rộ ở bất kỳ vùng da nào trên cơ thể với nhữngsẩn phù có màu hồng, đặc biệt rất ngứa và có thể hợp lại thành mảng có giới hạnrõ lan rộng khắp người. Sau vài phút hay vài giờ thì lặn mất, không để lại dấu vết.Phát ban có thể lặn ở chỗ này và nổi ở chỗ khác. 2. Phù mạch (còn gọi là phù Quincke) Nổi ban đột ngột làm sưng to cả một vùng (mí mắt, môi, bộ phận sinh dụcngoài, niêm mạc...), cho cảm giác căng nhiều hơn ngứa, có thể kèm theo nổi màyđay. Nếu phù ở lưỡi, thanh quản, hầu sẽ gây suy hô hấp, phải xử trí cấp cứu. 3. Da vẽ nổi Còn gọi là mày đay giả. Nếu dùng một vật đầu tù cà nhẹ lên da, vài phútsau trên mặt da sẽ nổi gồ lên một vệt màu hồng. Có thể đi kèm nổi mày đay. 4. Những dạng khác: sẩn nhỏ, sẩn mụn nước hay xuất huyết Mày đay hay phù Quincke có thể đi kèm với những triệu chứng toàn thânnhư sốt, đau khớp, rối loạn tiêu hóa, nhức đầu và nặng nhất là trụy tim mạch (sốcphản vệ) cần phải xử trí cấp cứu. III. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NỔI MÀY ĐAY 1. Mày đay thông thường a. Thức ăn: Những loại có thể gây dị ứng như sữa, trứng, cá biển, tôm cua,sò, ốc, phô mai, đồ hộp, mắm, tương, chao, sô-cô-la, rượu, bia. Các chất tạo màuthực phẩm và các chất bảo quản thực phẩm. b. Thuốc: Có thể xảy ra ngay sau khi dùng lần đầu hoặc từ 5-10 ngày sau.Nổi mày đay đơn thuần hay có kèm với sốt, đau khớp, nổi hạch... Các thuốcthường gây dị ứng nổi mày đay là Pennicillin (nguy hiểm nhất), Aspirin, thuốc hạnhiệt, các chất cản quang có chứa iod (trong chụp X - quang), thuốc ức chế menchuyển (điều trị cao huyết áp, suy tim), thuốc gây mê, huyết thanh, vaccin v.v... c. Nọc độc: Ong, kiến, sâu bọ... d. Kháng nguyên hô hấp: Rơm rạ, phấn hoa, bụi nhà, lông vũ, men mốc... e. Nhiễm: - Virus (viêm gan siêu vi B, C). - Vi khuẩn (ở tai, mũi, họng; bộ phận tiêu hóa, răng, miệng, niệu sinh dục). - Ký sinh trùng đường ruột (giun, sán…). - Nấm (candida ở da, nội tạng).

Tài liệu được xem nhiều: