Danh mục

Mấy vấn đề về nghiên cứu văn học dân gian qua văn bản

Số trang: 1      Loại file: pdf      Dung lượng: 198.30 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (1 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu văn học dân gian (VHDG) đương nhiên phải xem tác phẩm VHDG là đối tượng khảo sát chính. Nhưng tác phẩm VHDG tồn tại dưới dạng thức nào, phạm vi, giới hạn ra sao và liệu văn bản có phản ánh trung thực các dạng thức hiện tồn của nó hay không là điều đáng suy nghĩ. Về mặt lý thuyết, những vấn đề như vậy được các nhà Folklore học đặt ra từ lâu. Riêng ở nước ta, vấn đề này thực sự được chú trọng từ những năm 60 – 70 của thế kỷ trước. Dường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mấy vấn đề về nghiên cứu văn học dân gian qua văn bản Mấy vấn đề về nghiên cứu vănhọc dân gian qua văn bản Nghiên cứu văn học dân gian (VHDG) đương nhiên phải xem tác phẩm VHDG làđối tượng khảo sát chính. Nhưng tác phẩm VHDG tồn tại dưới dạng thức nào, phạm vi, giớihạn ra sao và liệu văn bản có phản ánh trung thực các dạng thức hiện tồn của nó hay khônglà điều đáng suy nghĩ. Về mặt lý thuyết, những vấn đề như vậy được các nhà Folklore họcđặt ra từ lâu. Riêng ở nước ta, vấn đề này thực sự được chú trọng từ những năm 60 – 70 củathế kỷ trước. Dường như ai cũng thấm nhuần nguyên lý: tách văn học dân gian ra khỏi môitrường sinh hoạt là tước mất linh hồn của nó. Dù vậy, trên thực tế người nghiên cứu vẫnphải bám vào yếu tố ngôn từ của tác phẩm thông qua văn bản. Hướng nghiên cứu này đượcxem là tiếp cận ngữ văn học đối với Folklore. Nó có mầm mống từ thời cổ đại ở TrungQuốc, La Mã, Ấn Độ... Đến giữa thế kỷ XX nhà Folklore học người Nga V. Ia. Prop đãnhấn mạnh Folklore là lĩnh vực của “những sáng tạo tinh thần, hơn nữa chỉ là những sángtạo ngôn từ”(1). Những thành tựu gặt hái được trong nghiên cứu VHDG qua nhiều thập niênđã chứng tỏ vai trò quan trọng của văn bản tác phẩmVHDG. Tuy nhiên, vấn đề cần trao đổiở đây là độ tin cậy của văn bản, sự sống động của ngôn ngữ VHDG được thể hiện như thếnào trong văn bản – điều mà các nhà nghiên cứu thường ít quan tâm. Thực tế cho thấy,người nghiên cứu phần lớn dựa vào các văn bản sưu tầm của người đi trước mà ít quan tâmđến chất lượng của nó, vì vậy, trong một số trường hợp khó tránh khỏi những nhận định sailạc. 1. Về vấn đề văn bản hóa tác phẩm văn học dân gian Một trong những nguyên tắc ghi chép văn học dân gian qua điền dã là phải tôn trọngsự tồn tại khách quan của tác phẩm. Sự ghi chép này tùy thuộc vào trình độ người thựchiện và bị chi phối bởi ý thức của mỗi thời đại, trình độ phát triển khoa học nhân văn củacác dân tộc. Từ thời phong kiến ở nước ta, việc ghi chép mang nhiều tính chất chủ quan.Các học giả thời đó không giấu diếm việc gọt đẽo trong quá trình ghi chép văn học dângian. Sang đầu thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu của ta đã thực sự làm công tác văn bảnhóa đúng nghĩa của lĩnh vực này. Những người tiên phong như Trương Vĩnh Ký, NguyễnVăn Ngọc, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan... để lại nhiều công trình sưu tập có giá trịkhoa học cho đến tận bây giờ. Một số bài học kinh nghiệm về việc ghi chép, bước đầu xâydựng được những nguyên tắc văn bản hóa đáng lưu ý. Từ thập niên 70 thế kỷ XX trở lạiđây, tốc độ văn bản hóa tác phẩm diễn ra ồ ạt với sự tham gia của nhiều đối tượng và trongsố đó không ít người xuất phát từ tình yêu văn hóa truyền thống để thực hiện chứ chưa phảilà người chuyên nghiên cứu Folklore. Đó là điều đáng khích lệ nhưng đã để lại khoảngtrống về độ tin cậy của văn bản. Tính trung thực, khách quan của văn bản VHDG được xemxét trên nhiều góc độ: cấu trúc ngôn từ, hình thức chính tả, phương ngữ, cách hành ngôn...của dân gian. Điều đáng nói là từ trước đến nay, việc văn bản hóa tác phẩm đều được cácnhà nghiên cứu chú trọng ở tính phổ thông nhằm truyền bá cho nên việc chọn lọc trở nênnghiệt ngã, thậm chí còn được phóng tác khiến cho bộ mặt văn học dân gian được lưu trênvăn bản mang màu sắc trang trọng và nhiều khi rất tân thời. Mọi đánh giá khoa học đều dựavào thực trạng này của văn bản văn học dân gian nên ít nhiều khó tránh khỏi cách nhìn lệchlạc và phiến diện. Đó là cách xây dựng văn bản thiên về tinh hoa văn học dân gian hơn làđời sống thực tại của nó. Chưa kể quá trình ghi chép, chọn lọc không tránh khỏi hạn chế donăng lực người thực hiện và những lý do khách quan. Xin nêu một số trường hợp về tình trạng bất cập trong văn bản hóa, dẫn đến nhữngsuy diễn, ngộ nhận đáng tiếc. Trường hợp thứ nhất. Khi làm tuyển tập cuốn Thơ ca dân gian Bến Hải(2) từ nguồntư liệu sưu tầm ở vùng đất “Ô Châu ác địa”, nay là huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị,chúng tôi chỉ tuyển chọn được gần 2000 đơn vị tác phẩm từ 10.000 đơn vị tác phẩm sưutầm được. Bất chợt thấy câu ca rất quen, nhưng rất lạ: Sầu lê mê lụy nhỏ uông uông Trai mô (nào) trai không thương vợ cũ, gái mô (nào) gái không buồn chồng xưa. “Lê mê” là gì? “uông uông” là gì? Là từ mới sáng tạo hay từ Việt cổ? Hay chỉ làhiện tượng biến âm? Chúng tôi có thử điều tra lại trong một dịp khác, khi hỏi thì ngườitrong vùng thừa nhận có sử dụng hay ít ra không phản ứng, nhưng lý giải thì chịu. Nghĩalà nhiều khi sự tồn tại của một số yếu tố trong tác phẩm mất hẳn nghĩa đích thực và tồn tạinhư một quy ước chứ không nhất thiết được cắt nghĩa rạch ròi. Hiện tượng này khá phổbiến. Giống như vậy, gần đây chúng tôi có hỏi một số chuyên gia về Folklore và một sốnhà ngôn ngữ học có uy tín về nghĩa lý của từ “tẻ” trong “cơm tẻ, mẹ ruột”. Ai cũng bảo“tẻ” là gạo để phân biệt giữa gạo tẻ với nếp! Vậy “nếp tẻ” là gì? Theo tôi, “tẻ” là từ Việtcổ = “đẻ” = “mẹ”. Người Mường phát âm “đẻ” là ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: