Mở cõi Quỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 145.33 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong thang niên đại các thời kỳ địa chất, vào khoảng 3,5 triệu năm trước đã hình thành dãy Trường Sơn. Đầu Kỷ đệ tứ, cách nay 2 triệu năm, nước biển đã tràn vào đến chân dãy núi Trường Sơn. Rồi biển thoái, miền đất bằng duyên hải theo đó nổi lên, nhiều vùng nước mặn bị tách ra khỏi biển cả và dần dần nổi lên các bãi bồi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mở cõi Quỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển Mở cõiQuỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển. Trong thang niênđại các thời kỳ địa chất, vào khoảng 3,5 triệu năm trước đã hình thành dãy TrườngSơn. Đầu Kỷ đệ tứ, cách nay 2 triệu năm, nước biển đã tràn vào đến chân dãy núiTrường Sơn. Rồi biển thoái, miền đất bằng duyên hải theo đó nổi lên, nhiều vùngnước mặn bị tách ra khỏi biển cả và dần dần nổi lên các bãi bồi. Quỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển. Trongthang niên đại các thời kỳ địa chất, vào khoảng 3,5 triệu năm trước đã hìnhthành dãy Trường Sơn. Đầu Kỷ đệ tứ, cách nay 2 triệu năm, nước biển đãtràn vào đến chân dãy núi Trường Sơn. Rồi biển thoái, miền đất bằng duyênhải theo đó nổi lên, nhiều vùng nước mặn bị tách ra khỏi biển cả và dần dầnnổi lên các bãi bồi. Miền Bắc xứ Nghệ hình thành một vịnh đầm phá mênh mông gọi là vịnhDiễn Châu, thông về phía Bắc với vịnh Thanh Hóa bởi eo Hoàng Mai và phíaNam bởi eo Đò Cấm. Tuổi thơ của tôi ngày ngày trông thấy những lèn đá xanh mơ trên nền trờiQuỳnh Lưu. Còn xa hơn, cao hơn, phía Trường Sơn, dõi mắt trông lên non xanhnúi thẳm và rừng đại ngàn đổ bóng một màu đỏ ối lúc hoàng hôn thì mơ màng aoước, nhưng còn quá xa xôi ngút ngát. Biển Đông lại gần gũi hơn, làng Quỳnh chỉ cách biển có 5 cây số đườngchim bay. Vậy mà, cả thời thơ dại và niên thiếu tôi không được xuống biển tắm vàvùng vẫy lần nào. Chỉ đến được bờ sông Mơ là ranh giới phía Đông làng, từ đónhìn thấy những cồn doi và rừng đước, sú vẹt và thôn xóm vùng bãi ngang mà sauđó mới là biển khơi. Do chiến tranh, tàu chiến Pháp rập rình ngoài khơi, ông vàcha tôi đi vắng xa, ở nhà bà và mẹ tôi lo sợ, không cho chúng tôi xuống biển,... Biển với tôi là dỏng tai nghe tiếng sóng dữ dội vọng về khi trời có bão lớn;và tiếng trống ngũ liên thúc dục trai tráng và dân quân trong làng đi giữ đê phíacống đập Hói Nồi, ngăn với sông Mơ, còn gọi là sông Mai Giang. Mãi về sau này, khi đã vào tuổi trưởng thành, đọc hương biên của các tácgiả người Việt và người Pháp, các tác giả đồng hương, tôi mới dần dần hình dungvề những năm tháng và chặng đường gian khó trong việc khai cơ lập nghiệp củacác bậc tiền nhân, những người đi mở cõi. Cho đến thế kỷ thứ X sau Công nguyên, vùng Diễn Châu - Quỳnh Lưu hãycòn đầm phá. Cách đây trên 600 năm, Quỳnh Đôi ngày nay còn là vùng nước mặn,nổi lên những gò đống giữa một dải đất nước triều lên xuống, những con nước củacác khe hói mà cá cua chưa từng thấy bóng người... Cuối đời Trần, Hồ Kha là người thông văn giỏi võ, một quan chức có uy tínlớn trong vùng. Họ Hồ từ hương Bàu Đột (Quỳnh Lâm - Quỳnh Lưu ngày nay) đivào Quỳnh Trạch (Yên Thành) rồi lại đi tìm đất mới ở Đường Khê (Đông Hiếu -Nghĩa Đàn ngày nay). Một vùng đất đỏ bazan màu mỡ cũng là đất lành để khaihoang lập ấp. Vậy nhưng, xứ sở sơn địa này, đất đai không đủ rộng lớn để mởmang lâu dài, núi rừng che khuất tầm mắt. Thế là một lần nữa ông lại đi tìm đấtmới theo dấu vết của đất liền đang lấn dần ra biển cả. Năm Giáp Dần (1314), đời Trần Minh Tông, Hồ Kha từ trại Tiên Sinhxuống sách Hoàn Hậu xem xét địa thế, thấy Thổ Đôi là vùng đất chưa khai phá.Mới có những gò đống nổi lên, với các loại cỏ nhọn hoắt và những cây dứa dại,bao quanh là những cây sú, cây mắm không biết bao năm tháng tuổi. Nhưng nơiđây phong cảnh hữu tình, có thể mở mang bờ cõi. Phía Tây có núi Trụ Hải hình cái tàn, liền kề là một dãy bảy ngọn đồi câycỏ tốt tươi hình bảy ngôi sao gọi là Thất Tinh Sơn1. Phía Đông Bắc có núi BátNhã, lại có núi Quy Lĩnh giáp biển hình cái bảng, đối diện với núi Quy Lĩnh là núiHiền Hoa gọi là Bảng Canh. Phía Đông Nam có núi đá hình ngọn bút gọi là HònBút, phía Nam có núi Yên Mã hình yên ngựa,... Xem phong thủy, Hồ Kha đinhninh rằng nơi đây sẽ là một vùng “địa linh nhân kiệt”... Hồ Kha giao cho con cả Hồ Hồng tiếp tục khai phá trang Thổ Đôi, giao chocon thứ Hồ Cao về lại đất Quỳnh Trạch, ông trở lại Đường Khê. Hồ Kha mất ởtrại Tiên Sinh, mộ chí tại làng Xuân Yết, ngày nay là xã Nghĩa Mỹ huyện NghĩaĐàn. Năm 1378, năm thứ hai Xương Phù, Trần Phế Đế, Hồ Hồng - Chánh độitrưởng, một võ quan chỉ huy hai nghìn quân, mới cùng ông Ma Lãnh công NguyễnThạc và ông Hoàng Khánh, Hành khiển quản thổ Diễn Châu lộ lập ra Thổ Đôitrang. Như vậy là bắt đầu được khai phá từ 1314, nhưng đến năm 1378 Thổ Đôimới trở thành trang ấp. Hồ Hồng là cụ tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Hoàng Khánh và Nguyễn Thạc vốn trước ở thôn Hiền Lương giáp biển,nhưng là vùng đất cao được bồi tụ trước Thổ Đôi, có cư dân sớm hơn. NguyễnThạc hiệu “An tâm cư di”, thủy tổ quê ngoài Bắc. Cuối đời nhà Trần, chính thế rốiren, ông tìm nơi ẩn dật, dời vào vùng biển Quỳnh Lưu làm nghề đánh cá. NămMậu Ngọ (1378), Nguyễn Thạc dọn về Thổ Đôi trang, ông là cụ tổ họ Nguyễn ởlàng Quỳnh. Gò đất mọc đầy cỏ dại và những cây dứa dại nhọn sắc, ông gọi là xứMa Lãnh2. Nơi cao thì trồng khoai rồi trồng lúa, nơi đầm lạch thì nuôi tôm cá.Con cháu gọi ông là Ma Lãnh công, khi qua đời mộ ông được chôn cất ở Ma Lãnh.Về sau đánh bắt cá ở đầm lạch thì đem biếu hai họ Hồ, Hoàng rồi mới phân chiacho con cháu trong họ. Hoàng Khánh là cụ tổ họ Hoàng ở làng Quỳnh, làm quan dưới triều vuaTrần Nghệ Tông, Duệ Tông và Trần Phế Đế trong những năm 60 và 80 thế kỷXIV. Ông là Hành khiển quan, cai quản Diễn Châu lộ. Khi mất ông có tên thụy làCương Chính công. Các tộc phả ghi: “Họ Hồ khai cơ; họ Nguyễn triệu cơ”. 1378 là năm màtriều đình xác nhận địa danh Thổ Đôi trang thuộc sách Hoàn Hậu. Hồ Hồng saukhi cùng các ông Ma Lãnh công và Hành khi ển Cương Chính công khai khẩn đấtThổ Đôi thành điền trang, đã vào trấn giữ phía Nam. Ông lấy bà vợ cả ở An Cựusinh ra dòng họ Hồ vùng Thuận Hóa, con cháu đông đúc có nhiều người hiển đạt.Hồ Hồng hi sinh trong chiến trận. Thi hài ông không chôn cất ở quê nhà nên còngọi là ô ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mở cõi Quỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển Mở cõiQuỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển. Trong thang niênđại các thời kỳ địa chất, vào khoảng 3,5 triệu năm trước đã hình thành dãy TrườngSơn. Đầu Kỷ đệ tứ, cách nay 2 triệu năm, nước biển đã tràn vào đến chân dãy núiTrường Sơn. Rồi biển thoái, miền đất bằng duyên hải theo đó nổi lên, nhiều vùngnước mặn bị tách ra khỏi biển cả và dần dần nổi lên các bãi bồi. Quỳnh Lưu, nơi địa đầu xứ Nghệ, là huyện đồng bằng ven biển. Trongthang niên đại các thời kỳ địa chất, vào khoảng 3,5 triệu năm trước đã hìnhthành dãy Trường Sơn. Đầu Kỷ đệ tứ, cách nay 2 triệu năm, nước biển đãtràn vào đến chân dãy núi Trường Sơn. Rồi biển thoái, miền đất bằng duyênhải theo đó nổi lên, nhiều vùng nước mặn bị tách ra khỏi biển cả và dần dầnnổi lên các bãi bồi. Miền Bắc xứ Nghệ hình thành một vịnh đầm phá mênh mông gọi là vịnhDiễn Châu, thông về phía Bắc với vịnh Thanh Hóa bởi eo Hoàng Mai và phíaNam bởi eo Đò Cấm. Tuổi thơ của tôi ngày ngày trông thấy những lèn đá xanh mơ trên nền trờiQuỳnh Lưu. Còn xa hơn, cao hơn, phía Trường Sơn, dõi mắt trông lên non xanhnúi thẳm và rừng đại ngàn đổ bóng một màu đỏ ối lúc hoàng hôn thì mơ màng aoước, nhưng còn quá xa xôi ngút ngát. Biển Đông lại gần gũi hơn, làng Quỳnh chỉ cách biển có 5 cây số đườngchim bay. Vậy mà, cả thời thơ dại và niên thiếu tôi không được xuống biển tắm vàvùng vẫy lần nào. Chỉ đến được bờ sông Mơ là ranh giới phía Đông làng, từ đónhìn thấy những cồn doi và rừng đước, sú vẹt và thôn xóm vùng bãi ngang mà sauđó mới là biển khơi. Do chiến tranh, tàu chiến Pháp rập rình ngoài khơi, ông vàcha tôi đi vắng xa, ở nhà bà và mẹ tôi lo sợ, không cho chúng tôi xuống biển,... Biển với tôi là dỏng tai nghe tiếng sóng dữ dội vọng về khi trời có bão lớn;và tiếng trống ngũ liên thúc dục trai tráng và dân quân trong làng đi giữ đê phíacống đập Hói Nồi, ngăn với sông Mơ, còn gọi là sông Mai Giang. Mãi về sau này, khi đã vào tuổi trưởng thành, đọc hương biên của các tácgiả người Việt và người Pháp, các tác giả đồng hương, tôi mới dần dần hình dungvề những năm tháng và chặng đường gian khó trong việc khai cơ lập nghiệp củacác bậc tiền nhân, những người đi mở cõi. Cho đến thế kỷ thứ X sau Công nguyên, vùng Diễn Châu - Quỳnh Lưu hãycòn đầm phá. Cách đây trên 600 năm, Quỳnh Đôi ngày nay còn là vùng nước mặn,nổi lên những gò đống giữa một dải đất nước triều lên xuống, những con nước củacác khe hói mà cá cua chưa từng thấy bóng người... Cuối đời Trần, Hồ Kha là người thông văn giỏi võ, một quan chức có uy tínlớn trong vùng. Họ Hồ từ hương Bàu Đột (Quỳnh Lâm - Quỳnh Lưu ngày nay) đivào Quỳnh Trạch (Yên Thành) rồi lại đi tìm đất mới ở Đường Khê (Đông Hiếu -Nghĩa Đàn ngày nay). Một vùng đất đỏ bazan màu mỡ cũng là đất lành để khaihoang lập ấp. Vậy nhưng, xứ sở sơn địa này, đất đai không đủ rộng lớn để mởmang lâu dài, núi rừng che khuất tầm mắt. Thế là một lần nữa ông lại đi tìm đấtmới theo dấu vết của đất liền đang lấn dần ra biển cả. Năm Giáp Dần (1314), đời Trần Minh Tông, Hồ Kha từ trại Tiên Sinhxuống sách Hoàn Hậu xem xét địa thế, thấy Thổ Đôi là vùng đất chưa khai phá.Mới có những gò đống nổi lên, với các loại cỏ nhọn hoắt và những cây dứa dại,bao quanh là những cây sú, cây mắm không biết bao năm tháng tuổi. Nhưng nơiđây phong cảnh hữu tình, có thể mở mang bờ cõi. Phía Tây có núi Trụ Hải hình cái tàn, liền kề là một dãy bảy ngọn đồi câycỏ tốt tươi hình bảy ngôi sao gọi là Thất Tinh Sơn1. Phía Đông Bắc có núi BátNhã, lại có núi Quy Lĩnh giáp biển hình cái bảng, đối diện với núi Quy Lĩnh là núiHiền Hoa gọi là Bảng Canh. Phía Đông Nam có núi đá hình ngọn bút gọi là HònBút, phía Nam có núi Yên Mã hình yên ngựa,... Xem phong thủy, Hồ Kha đinhninh rằng nơi đây sẽ là một vùng “địa linh nhân kiệt”... Hồ Kha giao cho con cả Hồ Hồng tiếp tục khai phá trang Thổ Đôi, giao chocon thứ Hồ Cao về lại đất Quỳnh Trạch, ông trở lại Đường Khê. Hồ Kha mất ởtrại Tiên Sinh, mộ chí tại làng Xuân Yết, ngày nay là xã Nghĩa Mỹ huyện NghĩaĐàn. Năm 1378, năm thứ hai Xương Phù, Trần Phế Đế, Hồ Hồng - Chánh độitrưởng, một võ quan chỉ huy hai nghìn quân, mới cùng ông Ma Lãnh công NguyễnThạc và ông Hoàng Khánh, Hành khiển quản thổ Diễn Châu lộ lập ra Thổ Đôitrang. Như vậy là bắt đầu được khai phá từ 1314, nhưng đến năm 1378 Thổ Đôimới trở thành trang ấp. Hồ Hồng là cụ tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Hoàng Khánh và Nguyễn Thạc vốn trước ở thôn Hiền Lương giáp biển,nhưng là vùng đất cao được bồi tụ trước Thổ Đôi, có cư dân sớm hơn. NguyễnThạc hiệu “An tâm cư di”, thủy tổ quê ngoài Bắc. Cuối đời nhà Trần, chính thế rốiren, ông tìm nơi ẩn dật, dời vào vùng biển Quỳnh Lưu làm nghề đánh cá. NămMậu Ngọ (1378), Nguyễn Thạc dọn về Thổ Đôi trang, ông là cụ tổ họ Nguyễn ởlàng Quỳnh. Gò đất mọc đầy cỏ dại và những cây dứa dại nhọn sắc, ông gọi là xứMa Lãnh2. Nơi cao thì trồng khoai rồi trồng lúa, nơi đầm lạch thì nuôi tôm cá.Con cháu gọi ông là Ma Lãnh công, khi qua đời mộ ông được chôn cất ở Ma Lãnh.Về sau đánh bắt cá ở đầm lạch thì đem biếu hai họ Hồ, Hoàng rồi mới phân chiacho con cháu trong họ. Hoàng Khánh là cụ tổ họ Hoàng ở làng Quỳnh, làm quan dưới triều vuaTrần Nghệ Tông, Duệ Tông và Trần Phế Đế trong những năm 60 và 80 thế kỷXIV. Ông là Hành khiển quan, cai quản Diễn Châu lộ. Khi mất ông có tên thụy làCương Chính công. Các tộc phả ghi: “Họ Hồ khai cơ; họ Nguyễn triệu cơ”. 1378 là năm màtriều đình xác nhận địa danh Thổ Đôi trang thuộc sách Hoàn Hậu. Hồ Hồng saukhi cùng các ông Ma Lãnh công và Hành khi ển Cương Chính công khai khẩn đấtThổ Đôi thành điền trang, đã vào trấn giữ phía Nam. Ông lấy bà vợ cả ở An Cựusinh ra dòng họ Hồ vùng Thuận Hóa, con cháu đông đúc có nhiều người hiển đạt.Hồ Hồng hi sinh trong chiến trận. Thi hài ông không chôn cất ở quê nhà nên còngọi là ô ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
địa danh nổi tiếng khí tượng tỉnh nghệ an lịch sử địa danh lịch sử nghệ anGợi ý tài liệu liên quan:
-
Quyết định số 71/2012/QĐ-UBND
3 trang 85 0 0 -
Quyết định số 73/2012/QĐ-UBND
8 trang 76 0 0 -
11 trang 69 0 0
-
8 trang 36 0 0
-
8 trang 34 0 0
-
Quyết định số 91/2012/QĐ.UBND
29 trang 30 0 0 -
Đề xuất quy trình nuôi cá giò vùng biển mở
5 trang 26 0 0 -
Giáo trình Mô hình hóa môi trường
219 trang 25 0 0 -
Khí tượng hải dương học - Chương 3
16 trang 24 0 0 -
Tiểu luận đề tài: Việc làm của người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An
132 trang 23 0 0