Bài viết nhằm giới thiệu khu bảo tồn biển Rạn Trào như một mô hình hiệu quả để bảo vệ tái tạo nguồn lợi rạn san hô cũng như góp phần cải thiện môi trường ven biển để hướng đến sự phát triển bền vững nghề cá của địa phương.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình quản lý khu bảo tồn biển dựa vào cộng đồng ở thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006
Trường Đại học Thủy sản
MÔ HÌNH QUẢN LÝ KHU BẢO TỒN BIỂN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Ở THÔN XUÂN TỰ, XÃ VẠN HƯNG, HUYỆN VẠN NINH, KHÁNH HÒA
Thạc sĩ Nguyễn Lâm Anh
Khoa NTTS, Trường ĐHTS
Các khu bảo tồn biển (KBTB) đóng một vai
trò quan trọng trong quản lý nghề cá trên toàn
thế giới. Đó là do chức năng của chúng trong
việc bảo vệ và phục hồi các nguồn lợi biển đang
dần cạn kiệt trước những tác động ngày càng
tăng của con người, trực tiếp như khai thác
nguồn lợi hay gián tiếp khi tác động lên các môi
trường sống của sinh vật biển. Ở Việt Nam, hệ
thống các KBTB đã và đang được thiết lập nhằm
mục đích bảo vệ các hệ sinh thái dọc theo bờ
biển. Các KBTB này được quản lý hoặc là đơn
vị hành chính của các cấp chính quyền hoặc
đồng quản lý với sự tham gia của cộng đồng
dân cư địa phương.
Được thành lập theo quyết định số 437/TSKT, ngày 26 tháng 9 năm 2000 KBTB Rạn Trào
ra đời với tổng diện tích 40 ha, trong đó vùng lõi
27 ha bao quanh rạn san hô. Cơ chế quản lý
dựa vào cộng đồng với việc thành lập Nhóm hạt
nhân do cộng đồng bầu ra để duy trì các hoạt
động của KBTB như bảo vệ nguồn lợi và môi
trường, trồng tái tạo nguồn lợi san hô, tham
quan trao đổi học tập... đã chứng tỏ là một công
cụ hiệu quả trong quản lý nghề cá bền vững.
Các hoạt động khai thác hủy diệt bị ngăn chặn,
các hoạt động khai thác thủy sản truyền thống
chấm dứt ở vùng lõi và giảm nhiều ở vùng đệm
đã làm cho mật độ cá tăng nhiều trong và xung
quanh khu bảo tồn.
1. Đặt vấn đề
Các Khu bảo tồn biển (KBTB) có chức năng
duy trì và bảo vệ nguồn lợi cũng như sự đa dạng
sinh học của sinh vật biển trong khu bảo tồn
cũng như cung cấp sự bổ sung nguồn lợi cho
các vùng xung quanh nó. Vào tháng 11-2001,
Hội nghị nghề cá bền vững của các nước Đông
Nam Á tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đã nhấn
mạnh việc cần thiết phải thiết lập hệ thống KBTB
như một công cụ hiệu quả trong bảo vệ nguồn
lợi trước nguy cơ cạn kiệt do các hoạt động khai
thác của con người cũng như góp phần tái tạo
nguồn lợi để góp phần đảm bảo an ninh lương
thực cho nhu cầu ngày càng tăng của con người
(ASEAN-SEAFDEC
Conference.
Technical
document, p.88). Trên thế giới có rất nhiều
KBTB được thành lập ở những nơi môi trường
nhạy cảm và dễ bị tác động như rạn san hô,
52
rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Chẳng hạn như
KBTB cho các rạn san hô ở vùng Nam Mỹ là 38,
91 ở Bắc Mỹ và 21 cho quần đảo Hawaii (Status
of Coral Reefs of the World: 2002) và 646 ở
vùng Đông Nam Á (Nguồn: Reefs at Risk in
Southeast Asia, WRI, 2002).
Ở Việt Nam, với bờ biển dài trên 3.260 km
và vùng biển trải dài trên 15 vĩ độ, có nguồn lợi
rạn san hô và rừng ngập mặn khá phong phú.
Việc quản lý hiệu quả các hệ sinh thái đặc biệt
trên sẽ đóng góp rất nhiều vào việc phát triển
bền vững nghề cá nước nhà. Cho đến nay nhiều
KBTB đã và đang đươc thành lập như Vườn
quốc gia Cát Bà, Vườn quốc gia Côn đảo, KBTB
Hòn Mun... và trong đó có KBTB Rạn Trào ở xã
Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh như một điển hình
về KBTB có qui mô nhỏ và được quản lý dựa
vào cộng đồng.
Nằm dọc bờ biển, xã Vạn Hưng có các hệ
sinh thái và nguồn lợi ven bờ phong phú với 13
rạn san hô nổi và thảm cỏ biển sát bờ (Hue,
N.T., Wade, H. and Vinh, N.V., 2001). Tuy nhiên
nguồn lợi giàu có này đã và đang bị tàn phá do
khai thác quá mức, khai thác hủy diệt như dùng
chất độc và thuốc nổ, và môi trường nước ven
bờ bị xuống cấp do mật độ lồng nuôi tôm hùm
quá dày cũng như lượng hóa chất dùng xử lý
trong các đìa nuôi tôm sú. Nếu các rạn san hô
tiếp tục bị phá hủy, việc nuôi trồng thủy sản tiếp
tục bị thất bại do môi trường và dịch bệnh,
nguồn lợi thủy sản bị khai thác cạn kiệt thì sinh
kế của cộng đồng cư dân địa phương sẽ bị đe
dọa nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi phải tiến
hành những biện pháp hiệu quả để bảo vệ
nguồn lợi, cải thiện môi trường hướng đến sự
phát triển bền vững cho địa phương. Một trong
những lựa chọn hứa hẹn dẫn đến thành công là
việc thành lập KBTB Rạn Trào với mô hình quản
lý dựa vào cộng đồng theo xu hướng quản lý
hiệu quả hiện nay với sự giúp đỡ của Tổ chức
Liên minh sinh vật biển Quốc tế tại Việt Nam
(IMA Việt Nam).
Bài báo này nhằm giới thiệu KBTB Rạn
Trào như một mô hình hiệu quả để bảo vệ và tái
tạo nguồn lợi rạn san hô cũng như góp phần cải
thiện môi trường ven bờ để hướng đến sự phát
triển bền vững nghề cá của địa phương.
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006
Trường Đại học Thủy sản
Hình 1. Bản đồ vị trí vùng nghiên cứu (Nguồn: IMA Vietnam, 2003)
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm nghiên cứu được chọn là thôn
Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa.
2.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông
thôn (Rapid Rural Appraisal) được sử dụng.
Ba nhóm đối tượng được chọn khảo sát là
IMA Việt Nam, chính quyền và cộng đồng dân
cư địa phương.
Số liệu thứ cấp như các số liệu về kinh tế xã
hội, nguồn lợi và hoạt động của KBTB được thu
thập từ các báo cáo và số liệu thống kê của
chính quyền địa phương và IMA Việt Nam.
Số liệu sơ cấp về cơ cấu gia đình, nghề
nghiệp, học vấn, quan điểm và nhận thức được
thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp các cán
bộ địa phương, cán bộ IMA Việt Nam và đại diện
của 299 hộ gia đình.
Ngoài ra các số liệu định tính phục vụ cho
phân tích cũng được thu thập qua quan sát
quang cảnh KBTB, thôn làng, các hộ gia đình
và nhất là thái độ của người được phỏng vấn.
2.3. Số liệu được nhập và xử lý trên bảng
tính Excel.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Vùng nghiên cứu
Theo số liệu thống kê của chính quyền địa
phương, thôn Xuân Tự nằm phía bắc xã Vạn
Hưng và có 4 km dọc theo vịnh Vân Phong.
Tổng diện tích của thôn là 370 ha và được chia
đôi bởi đường quốc lộ 1A: phần phía đông giáp
biển với phần lớn dân số và phần phía tây giáp
53
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006
núi dân cư thưa thớt. Dân số của thôn là
4164 người với 2046 nam giới (chiếm 49,2 %)
và 2115 nữ giới (50,8% dân số). Cơ sở hạ tầng
khá tốt với hệ thống đường liên thôn, có mạ ...