Danh mục

MÔI GIỚI TÍN DỤNG QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

Số trang: 5      Loại file: doc      Dung lượng: 126.00 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thông thường để đảm bảo an toàn, các khoản tín dụng phải được cấp theo quy trình tín dụng chặt chẽ của mỗi ngân hàng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MÔI GIỚI TÍN DỤNG QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG NGUYỄN THÀNH LUÂN QUẢN TRI KINH DOANH NGÂN HÀNG ĐH23A10 MÔI GIỚI TÍN DỤNG NỀN TẢNG I. 1. Thực trạng cấp tín dụng cho hoạt động buôn bán kinh doanh nhỏ lẻ. Thông thường để đảm bảo an toàn, các khoản tín dụng phải được cấp theo quy trình tín dụng chặt chẽ của mỗi ngân hàng. Bắt đầu từ khâu nhận hồ sơ đầy đủ, tiếp đến là phải tiếp xúc khách hàng, đi tham quan cơ sở sản xuất, điều tra thêm thông tin khách hàng từ CIC hay các nguồn không chính thức khác, sau đó tổng hợp thông tin về khách hàng và trình lên cấp có thẩm quyền kí quyết định cho vay, sau cùng mới đến bước giải ngân. Thông thường thời gian trung bình để nhận được tiền giải ngân từ một khoản vay kiểu như vậy ít nhất là khoảng 2-3 tuần. Do đó, việc có được một khoản vay để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh khoảng vài chục đến vài trăm triệu đồng trong ngày một ngày hai là khó có thể đạt được. Một thực tế nữa là bộ phận kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ không theo kiểu công ty đặc biệt là các tiểu thương buôn bán ở các chợ đ ầu mối thường xuyên là đối tượng cần các khoản vay khoảng vài chục triệu đ ể mua gấp nguồn hàng, hay gối đầu kinh doanh buôn bán trong thời gian chỉ một đến hai tháng. Mà thực tế, nếu đến ngân hàng làm thủ tục xin vay thì lại mất quá nhiều thời gian và thủ tục thì lại rườm rà khiến họ không xem ngân hàng là nơi đáng để trông cậy. Do đó, họ thường vay nóng các cá nhân khác hay vay theo kiểu góp chung trên một hợp đồng thông qua các “cò” tín dụng. Vấn đề này có vẻ sẽ trầm trọng khi mà ngày càng nhiều tiểu thương thích vay ở các đối tượng trên. Vấn đề không phải ở chỗ là các tiểu thương thích vay tiền ở các “cò” hơn là ngân hàng mà là việc các “môi giới tín dụng bất hợp pháp” này dồn chung các khoản cho vay dưới tên một hợp đồng tín dụng của một cá nhân đi vay trong khi cá nhân này lại hoàn toàn không biết mình phải chịu trách nhiệm pháp lý cho một hợp đồng tín dụng lên đ ến vài trăm tri ệu đồng. Vấn đề không dừng lại ở đó, việc cấp các khoản vay này đôi khi phải được sự đồng ý của các nhân viên tín dụng ngân hàng trong trường hợp khoản vay quá lớn mà không có tài sản bảo đảm theo quy định. Như vậy, kết quả cuối cùng cũng chỉ là cấp tín dụng cho tiểu thương nhưng ngặt nỗi họ không muốn đi theo cách truyền thống mà lại muốn một cách khác và trong khi luật thì chưa quy định mà nhu cầu thì rất lớn do đó sẽ không tránh khỏi việc lách luật. Vậy tại sao lại không quy định cụ thể cho hoạt động môi giới tín dụng ngân hàng. Rõ ràng đây chính là một kênh chuyển vốn nhanh, thực sự hữu ích và đem lại hiệu quả cao cho một bộ phận lớn các khách hàng kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ chuyên dựa trên uy tín để vay mượn nhau mà không có nhiều tài sản đ ể thể chấp cũng như không muốn liên quan đến giấy tờ thủ tục rườm rà. Vấn đề còn GV: TS LÊ ĐÌNH HẠC NGUYỄN THÀNH LUÂN QUẢN TRI KINH DOANH NGÂN HÀNG ĐH23A10 lại chính là về phía ngân hàng làm sao vừa cho vay được nhưng lại không quá “liều mạng” theo kiểu nhắm mắt kiếm lời. 2. Vấn đề pháp lý. Trước đây khoảng đầu những năm 2000, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam chỉ quy định vấn đề việc hạch toán chi phí môi giới, hoa hồng chỉ áp dụng trong loại hình DNNN trong Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996. Theo điều 1, khoản 1 của NĐ: “Hoa hồng môi giới là khoản tiền trả cho người làm môi giới cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ”. Thông tư số 01/1998/TT-BTC có quy định rõ về việc thực hiện NĐ59, có quy định việc phải lập hợp đồng hoặc giấy xác nhận về hoạt động môi giới của môi giới. Hiện nay, các tổ chức môi giới có thể cung cấp các dịch vụ như môi giới bảo hiểm, môi giới chứng khoán, môi giới BĐS, môi giới xuất khẩu lao động. Còn riêng với các tổ chức tín dụng thì áp dụng Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005 về chế độ tài chính đối với các Tổ chức tín dụng. Theo Thông tư này thì TCTD được phép hạch toán Doanh thu đối với khoản thu từ hoạt động môi giới và hạch toán Chi phi cho các khoản chi ra cho môi giới theo quy định. Vậy vấn đề môi giới tín dụng cũng sẽ được xử lý giống như các khoản mục môi giới khác của TCTD hay sẽ phải điều chỉnh riêng ra bởi vì hoạt động tín dụng là hoạt động sống còn của Ngân hàng. Vấn đề sẽ trở nên khá rắc rối khi mà trong thực tế có thể phát sinh nhiều biến chứng khó lường nếu không có quy định cụ thể và rõ ràng cho vấn đề này. II. MÔ HÌNH MỞ VÀ CÁC NHÂN TỐ THAM GIA TRỰC TIẾP. Nhân viên môi giới tín dụng nghiệp dư. 1. Nhân viên môi giới tín dụng nghệp dư là các cá nhân có đầy đủ khả năng để biết và hiểu rõ các vấn đề liên quan đến việc cấp một khoản tín dụng cho người đi vay. Đồng thời cá nhân đó phải sống định cư một cách thường xuyên ở tại khu vực đó ít nhất 22 năm để đưa ra ý kiến xem xét các khoản tín dụng có cho vay hay không trước khi chuyển hồ sơ lên bộ phận nhân viên tín dụng của ngân hàng. Trên thực tế các “cò tín dụng” phải là các cá nhân có mối quan hệ rộng rãi và được mọi người biết đến không chỉ vì tiếng tăm mà còn là do mối quan hệ cộng đồng lâu đời. 22 năm là thời gian tối thiểu để một các nhân tạo d ựng mối quan hệ cộng đồng trong khu vực. Điều này được giải thích như sau 22 năm là khoảng thời gian mà các nhân viên tín dụng chính quy hoàn thành một quá trình được rèn luyện trong môi trường học thuật thì thay vì được đào tạo trình độ chuyên môn, 22 năm sẽ là khoảng thời gian mà các cá nhân này hội đủ năng lực và tạo cho mình mối quan hệ khá rõ ràng với những người xung quanh. Khái niệm định cư lâu đời nhằm cho thấy sự an toàn và độ rủi ro thấp hơn khi ra quyết định vấn đề có cho vay hay không đối với các đối tượng có nhu cầu. Các cá nhân muốn tham gia vào nhóm các “chuyên viên môi giới tín dụng nghiệp dư” này phải trải qua một quá trình huấn luyện của Ngân hàng. Không những giảm bớt phần nào rủi ro cho Ngân hàng mà còn làm giảm rủi ro ...

Tài liệu được xem nhiều: