Danh mục

Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thuế và sự hài lòng của doanh nghiệp: Trường hợp nghiên cứu

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 605.92 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu đã đưa ra những hàm ý chính sách quản lý cho cơ quan Thuế trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ Thuế hướng tới gia tăng sự hài lòng cho doanh nghiệp nộp thuế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng gợi ý hướng nghiên cứu tương lai trong việc xem xét mối quan hệ này trong những ngữ cảnh nghiên cứu rộng hơn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thuế và sự hài lòng của doanh nghiệp: Trường hợp nghiên cứu MỐI QUAN HỆ GIỮA CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THUẾ VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA DOANH NGHIỆP: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI THỪA THIÊN HUẾ TAX SERVICE QUALITY AND ENTERPRISES’ SATISFACTION: A CASE STUDY IN THUA THIEN HUE NCS. Âu Thị Nguyệt Liên TS. Hoàng Trọng Hùng TS. Hồ Thị Hương Lan Trường Đại học Kinh tế, Đại học HuếTóm tắt Chất lượng dịch vụ thuế đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý thuế đốivới doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây chưa đi sâu đánh giá chấtlượng dịch vụ thuế và mối quan hệ của nó với sự hài lòng của DN. Nghiên cứu này sửdụng nghiên cứu kết hợp (định tính và định lượng) nhằm phát triển thang đo chất lượngdịch vụ thuế và đánh giá mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thuế và sự hài lòng củadoanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tồn tại mối quan hệ có ý nghĩa giữa chấtlượng dịch vụ thuế và sự hài lòng của DN. Nghiên cứu đã đưa ra những hàm ý chính sáchquản lý cho cơ quan Thuế trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ Thuế hướng tới gia tăngsự hài lòng cho doanh nghiệp nộp thuế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng gợi ý hướng nghiêncứu tương lai trong việc xem xét mối quan hệ này trong những ngữ cảnh nghiên cứu rộnghơn.Từ khóa: Chất lượng dịch vụ Thuế, Sự hài lòng, Doanh nghiệp nộp thuế, mối quan hệ.Abstract The quality of tax services of tax authorities plays an important role in the processof tax administration for enterprises. However, limited studies have assessed the quality oftax services of tax authorities and investigated the relationship between quality of taxservices of tax authorities and enterprises’ satisfaction. This paper used a combination ofqualitative and quantitative methods to develop the measurement of quality of tax servicesand identify the relationship between tax service quality and and enterprise’ satisfaction.The research results show the existence of a significant relationship between tax servicequality and business satisfaction. This paper proposed management policy implications fortax authority in improving the quality of tax services towards the satisfaction ofenterprises. In addition, the paper also suggests future research in considering thisrelationship in broader contexts.Keywords: Tax service quality, Satisfaction, Enterprise’s Taxpayer, Relationship 8081. Đặt vấn đề Doanh nghiệp Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đấtnước cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng (Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, 2019). Nghiên cứu củaAtawodi và Ojeka (2012) chỉ ra rằng doanh nghiệp (DN) cần được tạo môi trường thuậnlợi, nuôi dưỡng các sáng kiến kinh doanh mà họ đang thực hiện để phục vụ cho sự pháttriển và mang lại lợi thế đất nước. Những nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triểnKinh tế (OECD, 2016a, 2016c, 2017, 2019) cho thấy xu hướng cải cách thuế theo hướngdịch vụ nhằm tạo thuận lợi và gia tăng sự hài lòng cho DN đang được các cơ quan thuế(CQT) các nước lựa chọn để nâng cao hiệu quả quản lý thuế hiện đại.Thực tế hiện nay, bên cạnh gặp khó khăn về vốn, DN cũng còn gặp khó khăn về tìm hiểuvà thực hiện chính sách thuế do ít am hiểu về pháp luật (UBND tỉnh TT - Huế, 2018). DNthường gặp nhiều khó khăn trong công tác thực thi chính sách và thủ tục hành chính thuế.Một số lượng lớn DN dù mong muốn tự nguyện tuân thủ nhưng chưa có đủ thông tin hỗ trợcác thủ tục quy định (OECD, 2010b). Có thể thấy, mặc dù CQT trong những năm qua đãcó nhiều chương trình dịch vụ hỗ trợ thuế và sự hài lòng cho DN (World Bank và cộng sự,2015a, 2017), tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đánh giá chất lượng dịch vụ thuế từ quanđiểm của DN và mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ thuế với sự hài lòng. Nhiều câu hỏiđặt ra như: Chất lượng dịch vụ thuế có đáp ứng khả năng tiếp cận thông tin thuế của DNhay không? DN có thật sự hài lòng với các phương thức tuyên truyền hỗ trợ (TTHT) củaCQT đang cung cấp hay không? Và mối quan hệ giữa chất lượng thuế của CQT và sự hàilòng của DN như thế nào? Giải pháp nào để CQT đạt mục tiêu kế hoạch đề ra (tỷ lệ 80%DN hài lòng với dịch vụ thuế của CQT Việt Nam)?... vẫn chưa được giải đáp trọn vẹn.Về mặt lý luận, các công trình nghiên cứu trước đây có đề cập đến chất lượng dịch vụ thuếvà sự hài lòng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào cá nhân người nộpthuế (NNT) (Awaluddin và Tamburaka, 2017; Gangl và cộng sự, 2013h) hay tập trung vàoDN và các tổ chức hành chính sự nghiệp (Đặng Thanh Sơn và cộng sự, 2013) hay dịch vụhỗ trợ thuế gắn với không tuân thủ thuế của DNNVV (L. H. Ali ...

Tài liệu được xem nhiều: