Danh mục

Môn bạc hà - cây rau để nấu canh

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 133.39 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Môn bạc hà (Alocasia odora) - lá hình lọng (cuống gắn bên trong lá)Đây là một cây rau có tên gọi đã gây nhiều nhầm lẫn: cây được gọi là Bạc hà để nấu canh (miền Nam), nhưng lại là Dọc mùng (miền Bắc) hay Lùng (miền Trung), còn được gọi là Mùng thơm, tên khoa học Alocasia odora - H.1, thuộc họ Ráy Araceae. Đặc tính thực vậtCây thân thảo, đa niên nhờ có rễ củ và ngó (căn hành) ngầm dưới đất. Ngó nhảy ra cây con. Lá khá lớn, cuống dài 0,5 - 1 mét, phiến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Môn bạc hà - cây rau để nấu canh Môn bạc hà - cây rau để nấu canh Môn bạc hà (Alocasia odora) - lá hình lọng (cuống gắn bên trong lá) Đây là một cây rau có tên gọi đã gây nhiều nhầm lẫn: cây được gọi làBạc hà để nấu canh (miền Nam), nhưng lại là Dọc mùng (miền Bắc) hay Lùng(miền Trung), còn được gọi là Mùng thơm, tên khoa học Alocasia odora - H.1,thuộc họ Ráy Araceae. Đặc tính thực vật Cây thân thảo, đa niên nhờ có rễ củ và ngó (căn hành) ngầm dưới đất. Ngónhảy ra cây con. Lá khá lớn, cuống dài 0,5 - 1 mét, phiến lá có lông mịn trông mốcmốc; cuống lá màu lục nhạt, khá mập, có rãnh ôm thân dài bằng 1/2 cọng, gắn vàogiữa lá (cách mép 1/3 lá chứ không phải gắn ở mép lá: lá hình lọng). Hoa có mo,có thể đơn phái hay lưỡng phái nhưng ít khi trổ hoa. Cây mọc hoang hay trồng hầunhư khắp nơi tại nước ta, để lấy cuống lá nấu canh. Thành phần dinh dưỡng và hóa học Cọång lá Môn bạc hà (Dọc mùng): 100 gram phần ăn được chứa 95 g nước,0,25 g protein, 3,8 g carbohydrat (bột đường), 0,5 g chất xơ, 25 mg phosphor, 300mg kali, 48 mg caci, 16 mg magnesium, 0,03 mg đồng, 0,4 mg sắt, 0,012 mg sinhtố B1, 0,03 mg B2, 0,02 mg PP và 3 mg sinh tố C và chỉ cho 14 kcalo. Nói chung,Dọc mùng rất nghèo dưỡng chất và năng lượng nhưng ăn rất ngon và giúp đỡ ngánthịt cá trong canh, ăn nhiều làm chất độn giúp giảm cân. Rễ (dùng làm thuốc) cũng chứa nhiều dưỡng chất như Môn ngọt (Mônnước). Toàn cây còn chứa: - Chất đường hữu cơ như fructose, glucose, amylose, sucrose… - Acid hữu cơ như citric, oxalic, malic, succinic - Hợp chất phức tạp loại beta-lectin, triglochin và isotriglochin, alocasin. Các nghiên cứu khoa học về Môn bạc hà: đa số các nghiên cứu khoa họcchú trọng đến cây Ráy (Alocasia macrorrhiza - H.2), tuy nhiên cả hai cây đều có rễcủ có thành phần hóa học rất tương tự như calci oxalat, alocasin, sapotoxin. Cũngmay là bà con ta không ai ăn hai loại củ này (chỉ dùng làm thuốc, sau khi đã chếbiến). Ngộ độc do calci oxalat Nghiên cứu tại BV cựu chiến binh Taichung (Taiwan) xem xét các trườnghợp ngộ độc do ăn hay chạm vào lá hay cọng cây Ráy từ 1985 đến 1993 ghi nhậnđược 27 trường hợp: bệnh nhân tuổi từ 15 đến 68: 12 nữ, 15 nam. Một bệnh nhânngộ độc do chạm vào cây Ráy ngoài da và mắt. Trong số 25 trường hợp ăn cọng láRáy nấu chín hay ăn sống: triệu chứng đầu tiên là khó chịu nơi cổ họng và sau đólà tê khoang miệng. Một số bệnh nhân chảy nước bọt, tắt tiếng và đau bụng, lởmiệng, khó nuốt, đau tức ngực, sưng môi. Hàm lượng sapotoxin trong nhựa câyRáy thêm vào lượng cao calci oxalat trong cọng được xem là những tác nhânchính gây ngộ độc. (Veterinary and Human Toxicology Số 40 - 1998). Một trườnghợp ngộ độc khác do ăn cọng Môn, với các triệu chứng thần kinh như đau và têvùng miệng cùng ói mửa và đau bụng dữ dội đã được ghi nhận tại BV Prince ofWales, Shatin (Hồng Kông), được xem là do sapotoxin, một chất độc thần kinh cótrong cọng Môn hay Ráy gây ra (Human Experimental Toxicology Số 14-1995). Thực ra bản thân cọng Môn bạc hà ít khi gây ngộ độc hay gây ngứa, ngoạitrừ khi thao tác để chạm mủ cây lên da cánh tay hay mắt hoặc do nấu chưa sôi,chưa chín. Có một loài Ráy có lá hình lọng hơi giống Môn bạc hà là cây Ráy ấn(Alocasia indica - H.3) nếu dùng nhầm mới gây ngộ độc. Hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm của alocasin Alocasin, một protein phức tạp trích được từ rễ một số cây Alocasia như củRáy, củ Môn bạc hà. Alocasin có chuỗi acid amin tận cùng APEGEV, có một sốhoạt tính chống nấm gây bệnh tương tự như miraculin ly trích từ rễ Đậu Hà Lan(Pisum sativum). Alocasin có hoạt tính chống botrytis cinerea, làm giảm hoạt tínhcủa men HIV-1 reverse transcriptase và có một hoạt tính tạo ngưng tụ hồng cầuyếu (ở nồng độ 1 mg/ml) (Protein Expr & Purification Số 28-2003). Môn bạc hà trong đông y Thần nông bản thảo kinh có ghi chép vị thuốc Lang tử (Lang-tu) do vịthuốc có độc tính cao, hoạt tính mạnh như sói dữ. Vị thuốc này có thể do: Rễ phơi khô của Môn bạc hà (Alocasia odora), được gọi là Quảng lang tử(Kuang-lang- tu) thường được dùng tại Đài Loan và vùng Quảng Đông. Rễ phơi khô của Euphorbia pallasi, gọi là Bạch lang tử (Pai-lang-tu). Rễ phơi khô của Stellera chamaejasme gọi là Lang tử đông bắc hay Hồnglang tử. Vị thuốc được cho là có vị đắng, cay, tính bình, có độc, tác động vào cáckinh mạch thuộc phế và tâm. Tác dụng trừ đàm, phá ứ, diệt ký sinh trùng trongruột, trị đau. Dùng trong các trường hợp bị ứ đàm và thủy dịch, bụng u nổi cục, hokèm theo khó thở, tức và sưng ngực; trị ghẻ… Sách thuốc cổ “‘Hoàng Hán y học”’ có ghi: “Lang độc phá được tích tụ,chữa được bệnh trong bụng có báng tích, chữa được chứng ghẻ lở lâu năm, mụnghẻ có vảy, chảy ra nước vàng (vẩy nến)… Dùng rễ cây Lang độc, thu hoạch ...

Tài liệu được xem nhiều: