Tác phẩm Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo của Tiến sĩ Nguyễn Thị Trường Giang ra mắt bạn đọc dịp Ngày báo chí Việt Nam vừa qua có lẽ là chuyên khảo dày dặn và trọn vẹn nhất do một tác giả tiến hành về đạo đức nghề nghiệp của các nhà báo nước ta - gọi tắt là “đạo đức báo chí” - tính đến nay. Chuyên khảo khởi thủy là luận văn tiến sĩ của nhà báo trẻ. Sau khi bảo vệ luận án thành công, chị tiếp thu ý kiến của các Giáo sư trong...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một chuyên khảo thú vị về đạo đức báo chí Việt Nam Một chuyên khảo thú vị về đạo đức báo chí Việt NamTác phẩm Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo của Tiến sĩ Nguyễn Thị TrườngGiang ra mắt bạn đọc dịp Ngày báo chí Việt Nam vừa qua có lẽ là chuyênkhảo dày dặn và trọn vẹn nhất do một tác giả tiến hành về đạo đức nghềnghiệp của các nhà báo nước ta - gọi tắt là “đạo đức báo chí” - tính đến nay.Chuyên khảo khởi thủy là luận văn tiến sĩ của nhà báo trẻ. Sau khi bảo vệ luận ánthành công, chị tiếp thu ý kiến của các Giáo sư trong Hội đồng Khoa học và củanhiều đồng nghiệp, từ đó biên tập, chỉnh sửa, bổ sung nội dung và tổ chức thànhsách chuyên khảo. Sách dày 380 trang, gồm 5 chương và phần phụ lục cùng danhmục 135 tài liệu tham khảo, theo tôi là công trình nghiên cứu công phu, cập nhật,rất thú vị và bổ ích về một chủ đề luôn mang tính thời sự trong đời sống báo chínước nhà vài ba chục năm lại đây.Ấn tượng mạnh mẽ tác phẩm để lại trong tôi sau khi đọc là sự ngồn ngộn thực tếsống động Việt Nam, nhiều việc nêu trong sách vẫn như là câu chuyện vừa xảy ra,hiện diện trên nhiều trang báo, đang được dư luận sổi nổi luận bàn, có vụ hình nhưcác nhà chức trách cũng chưa khép lại hồ sơ. Là công trình biên khảo chuyên biệtcủa một nhà giáo chuyên ngành báo chí truyền thông, tác phẩm vẫn không quánặng tính hàn lâm. Đương nhiên, như mọi công trình nghiên cứu, tác giả đã dànhphần đầu của cuốn sách đề cập cơ sở lý luận của chủ đề theo tầm nhìn khoa học,phần này thiết thực, sáng sủa, quan điểm rõ ràng, sát với hoàn cảnh báo chí nướcta, dễ tiếp nhận đối với sinh viên báo chí và những nhà báo bình thường đại thểnhư tôi.Tác giả dành hai chương đầu cuốn sách khái quát vấn đề: “Đạo đức nghề nghiệpnhư một điều tiết trong hoạt động báo chí”, và “Đạo đức nghề nghiệp trong cácmối quan hệ của nhà báo”. Hai chương này được xem xét dưới ánh sáng tư tưởngHồ Chí Minh, bám sát đường lối, chính sách cũng như sự chỉ đạo của Đảng ta đốivới báo chí, lực lượng được coi là đi đầu trong công tác chính trị, tư tưởng. Tiếpđó, tác giả khẳng định: “Tính tích cực là khuynh hướng chủ đạo trong đạo đứcnghề nghiệp nhà báo Việt Nam” (Chương 3), tuy nhiên không nề hà ngay sau đódành cả một chương với dung lượng lớn gần gấp đôi (tính theo số trang) để liệt kêvà phân tích “Những biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ViệtNam hiện nay”, quy các biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp th ường gặp nhấtvào năm nhóm. Tác phẩm Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo - Tiến sĩ Nguyễn Thị Trường GiangChương 5, chương cuối cùng, đề cập vấn đề cốt lõi: “Giải pháp nâng cao đạo đứcnghề nghiệp của nhà báo Việt Nam”. Theo tôi, đây là vấn đề “khó nuốt” nhất lâunay. Còn nhớ, những năm 1990, sau khi Đại hội VI của Hội Nhà báo Việt Namthông qua Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Nam gồm 10 điều, Ban T ưtưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo TƯ) phối hợp với Hội Nhàbáo Việt Nam và Học viện Báo chí Tuyên truyền đã tổ chức hội thảo khoa họcquốc gia, bàn cách làm thế nào đưa Quy ước ấy thật sự đi sâu vào đời sống báochí. Nhiều ý kiến chắt lọc từ hội thảo đến năm 1999 được dùng làm một phần cứliệu cho việc Quốc hội bổ sung, sửa đổi một số điều trong Luật báo chí 1989, cũngnhư thể hiện trong nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí th ư, một sốNghị quyết chuyên đề của Chính phủ, và đặc biệt các Thông tri hướng dẫn chi tiếtviệc thi hành của Bộ Văn hóa Thông tin (trước đây) và Bộ Thông tin Truyền thông(hiện nay). Mặc dù vậy, không ít điều trong Quy ước đạo đức và các thông trihướng dẫn việc thực hiện, vì nhiều lý do, vẫn chưa trở thành thực tế trong cuộcsống. Nguyên nhân chính là ở chỗ Quy ước không phải là Luật, tức là cái đượcnhiều người thỏa thuận với nhau và cam kết thực hiện theo tâm nguyện, không cógiá trị bắt buộc, không kèm theo biện pháp chế tài, thì cho dù có đổi Quy ướcthành Quy định mà lòng người chưa thấm thì cơ bản vẫn như cũ mà thôi.Điều đáng quý của cuốn sách, theo tôi, là khi kiến giải các vấn đề hóc búa này, tácgiả Nguyễn Thị Trường Giang không chỉ dựa vào suy nghĩ của riêng mình màkhẳng định một cách dễ dãi theo kiểu, như anh em vẫn nói vui với nhau, “khôngmất tiền mua” cứ thoải mái đề xuất phải làm thế này, cần làm thế nọ... Phần lớn ýkiến của chị đều dựa trên sự phân tích cứ liệu thực tế, đã đăng tải trên mặt báo, thuhút sự quan tâm của dư luận, hoặc được chứng minh bằng các con số thống kê,biểu đồ mà chị công phu thu thập qua nhiều cuộc điều tra x ã hội học dưới dạngphiếu trưng cầu ý kiến một bộ phận công chúng và đồng nghiệp, hay là những biênbản phỏng vấn, biên bản phỏng vấn sâu người dân và nhà báo, vv. Chị dành khánhiều trang trong phần Phụ lục đăng tải ý kiến của một số nhà báo tên tuổi thuộcnhiều thế hệ, một số người hiện đang giữ cương vị chủ chốt trong ngành báo chínước nhà về vấn đề này. Cái vốn thực tế phong phú và đa dạng ấy làm nên xươngsống của cuốn sách và là nền tảng ...