Danh mục

Một số điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010

Số trang: 3      Loại file: doc      Dung lượng: 43.50 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Một số điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010" dưới đây để nắm bắt được những điểm mới về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, về thỏa thuận trọng tài, quy định bảo vệ người tiêu dung, tiêu chuẩn trọng tài viên, về tố tụng trọng tài,... Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010 Luật Trọng tài Thương mại (TTTM) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa  VII kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, thay thế cho Pháp lệnh  Trọng tài Thương mại (PLTTTM) năm 2003. Với 13 chương, 82 điều, Luật TTTM đã thể chế hoá  một cách đồng bộ cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trong tài ở nước ta trên cơ sở kế thừa các quy  định của PLTTTM. Bên cạnh đó, so với PLTTTM, Luật TTTM có nhiều quy định mới nhằm đáp ứng  đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại  hiện nay. Sau đây là những điểm mới đáng chú ý của Luật Trọng tài Thương mại năm 2010: 1. Về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Đây là điểm mới đầu tiên là Luật TTTM. Theo đó, Luật TTTM đã mở rộng thẩm quyền giải quyết  các tranh chấp thương mại của Trọng tài đối với nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích  của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM  so với PLTTTM và phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới. 2. Về thỏa thuận trọng tài. Luật TTTM mới cũng đã khắc phục được sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm  2003 về các trường hợp vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 Luật TTTM giới hạn 6 trường hợp  theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu với những quy định cụ thể và rõ ràng hơn so với những quy định  tại Điều 10 của PLTTTM. Luật TTTM còn quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì  bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện  nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (khoản 5 Điều 43 Luật TTTM). Quy định này sẽ  hạn chế tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không xác định được cơ quan nào giải quyết  tranh chấp. 3. Quy định bảo vệ người tiêu dùng Một điểm mới đáng chú ý khác là tại Điều 17 của Luật TTTM đã bổ sung quy định nhằm bảo vệ  người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó “Đối với các tranh  chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được  ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa  thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết  tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người  tiêu dùng chấp thuận”. Quy định này thể hiện rõ thái độ bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp  người tiêu dùng bị đặt vào thế bị động trong các giao dịch dựa trên những hợp đồng in sẵn từ phía nhà  cung cấp dịch vụ, đồng thời nó cũng là biện pháp để hạn chế những phương thức giải quyết tranh  chấp không có lợi cho khách hàng thường hay bị người cung cấp dịch vụ cài sẵn trong các hợp đồng  và ép buộc bên sử dụng dịch vụ phải chấp nhận. 4. Tiêu chuẩn trọng tài viên. Luật TTTM cũng đã kế thừa và quy định rõ hơn tiêu chuẩn trọng tài viên so với PLTTTM. Điều 20  Luật TTTM có quy định rõ cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua  thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm  trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của  mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường hợp đặc biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên  niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường  hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ  (khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật TTTM 2010 cũng không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch  Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt  Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực  tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Về tố tụng trọng tài Luật TTTM cũng bổ sung quy định về quy tắc tố tụng trọng tài, theo đó, các Trung tâm trọng tài được  ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung  tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp (khoản 1 Điều 28). Các Trung tâm trọng tài  nước ngoài cũng được phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp  luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Luật đã dành toàn bộ chương XII  để quy định về chức năng, các điều kiện và phạm vi hoạt động của các Trung tâm Trọng tài nước  ngoài tại Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị và là sự hỗ trợ kịp thời để hoạt động của Trọng tài ở Việt  Nam hội nhập với quốc tế. Đồng thời, điều này cũng mang lại sự cạnh tranh lành mạnh giữa các  trung tâm trọng tài và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiều lựa chọn hơn khi cần tớ ...

Tài liệu được xem nhiều: