Một số khuyến nghị nhằm nắm bắt cơ hội từ việc thực thi các cam kết TPP ở Việt Nam
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 312.63 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này sẽ tập trung phân tích các cơ hội và chỉ rõ những thách thức cơ bản mà các ngành và nền kinh tế Việt Nam phải vượt qua khi tham gia và thực thi các cam kết của TPP, đồng thời cũng đề xuất một số gợi ý chính sách.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số khuyến nghị nhằm nắm bắt cơ hội từ việc thực thi các cam kết TPP ở Việt Nam MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NẮM BẮT CƠ HỘI TỪ VIỆC THỰC THI CÁC CAM KẾT TPP Ở VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Cẩm Vân Trường Đại học Kinh tế Quốc dânTóm tắt Việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ đem lạicho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức. Nhậndiện được các cơ hội và thách thức sẽ góp phần giúp Việt Nam tận dụng đượcnhững thuận lợi, hạn chế những khó khăn, trở ngại và vượt qua thách thức nhằmthúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, cải thiện tính minh bạchtrong điều hành, thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của cácdoanh nghiệp, các ngành và nền kinh tế. Bài viết này sẽ tập trung phân tích cáccơ hội và chỉ rõ những thách thức cơ bản mà các ngành và nền kinh tế Việt Namphải vượt qua khi tham gia và thực thi các cam kết của TPP, đồng thời cũng đềxuất một số gợi ý chính sách.1. Giới thiệu Nhiều năm qua Việt Nam đã khởi xướng chính sách đổi mới, mở cửa và đãđạt được những thành tựu ban đầu rất đáng khích lệ. Tăng trưởng kinh tế nhanhtrong hai thập niên qua đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới, từ một nền kinh tếchậm phát triển trở thành nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Quá trình cảicách kinh tế đã giúp hình thành một hệ thống kinh tế đa ngành và có nhiều thànhphần tham gia. Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế tư nhân khiến khả năngchi phối của khu vực quốc doanh trong tổng thể nền kinh tế ngày càng giảm.Cùng với khu vực FDI, những lực lượng này đang ngày càng đóng một vai tròlớn hơn đối với các hoạt động kinh tế cũng như các mục tiêu xã hội như tạo việclàm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, trong những năm qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫnchủ yếu dựa vào đầu tư công và thương mại quốc tế hơn là dựa vào sức cầu trongnước. Trong đó, thương mại quốc tế đóng góp rất lớn cho tốc độ tăng trưởng kinhtế từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đến nay. Mặc dù xuất khẩu tăngtrưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu có hiệu quả và năng lực cạnh tranh 367không cao, xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các ngành hàng thâm dụng lao động,công nghệ thấp như: dệt may, giày dép, và các ngành hàng xuất khẩu phần lớndưới dạng nguyên liệu thô, hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng thấp như: nôngnghiệp, đặc biệt là thủy sản. Hơn nữa, tốc độ cải cách và hội nhập của nền kinh tếViệt Nam vẫn khá chậm chạp. Nền kinh tế cơ bản vẫn chưa hình thành các cơ sởcủa sự tăng trưởng bền vững khi các doanh nghiệp nhà nước được xem là xươngsống của nền kinh tế vẫn thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ khiến cho hiệu suất tăngtrưởng kém hiệu quả. Kế hoạch cải cách doanh nghiệp nhà nước được đề ra vớinhiều tham vọng song không kế hoạch nào được thực hiện đúng lộ trình trongnhiều năm qua. Trong khi đó, khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự mạnh mẽ hơn donội lực yếu kém. Sau những nỗ lực thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúcnền kinh tế, để có thể tiến thêm một bước dài trên con đường cải cách, việc thúcđẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới bằng cách thamgia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một trong nhữngbước đi quan trọng và đầy quyết đoán của Việt Nam trong hội nhập quốc tế vớikỳ vọng tạo dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh thực chất, gia tăng hơn nữanhững lợi ích, nâng cao vị thế kinh tế và trình độ phát triển của Việt Nam. Thamgia TPP là một sự kiện lịch sử đặc biệt trong quá trình hội nhập của Việt Nam sausự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007. TPP được đánh giá là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong nhữngnăm đầu của thế kỷ XXI với các tiêu chuẩn cao, toàn diện và có phạm vi ảnhhưởng rộng lớn. TPP tập hợp 12 quốc gia có quy mô và mức độ phát triển khácnhau thuộc vành đai Thái Bình Dương bao gồm: Mỹ, Nhật Bản, Canada,Singapore, Australia, New Zealand, Malaysia, Chile, Mexico, Việt Nam, Peru vàBrunei tạo thành một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhất toàn cầu với hơn 790triệu dân, chiếm gần 25% diện tích thế giới, 40% GDP và 30% giá trị thương mạitoàn cầu. Các nước tham gia TPP kỳ vọng thỏa thuận thương mại tự do lớn nhấtthế giới này sẽ giúp hỗ trợ việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, phát triểntoàn diện và đổi mới, thúc đẩy thương mại tự do trên khắp khu vực châu Á - TháiBình Dương. Trong 12 thành viên tham gia TPP, Việt Nam hiện đứng ở vị trí thứ 8 vềdiện tích, thứ 8 về xuất nhập khẩu nhưng có trình độ kinh tế thuộc hàng thấp nhấtcả về quy mô nền kinh tế cũng như mức GDP bình quân đầu người. Trong quanhệ thương mại với các nước TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu tại 7/11 thị trường368của TPP. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào 11 thành viên còn lại của TPPchiếm khoản ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số khuyến nghị nhằm nắm bắt cơ hội từ việc thực thi các cam kết TPP ở Việt Nam MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NẮM BẮT CƠ HỘI TỪ VIỆC THỰC THI CÁC CAM KẾT TPP Ở VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Cẩm Vân Trường Đại học Kinh tế Quốc dânTóm tắt Việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ đem lạicho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức. Nhậndiện được các cơ hội và thách thức sẽ góp phần giúp Việt Nam tận dụng đượcnhững thuận lợi, hạn chế những khó khăn, trở ngại và vượt qua thách thức nhằmthúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, cải thiện tính minh bạchtrong điều hành, thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của cácdoanh nghiệp, các ngành và nền kinh tế. Bài viết này sẽ tập trung phân tích cáccơ hội và chỉ rõ những thách thức cơ bản mà các ngành và nền kinh tế Việt Namphải vượt qua khi tham gia và thực thi các cam kết của TPP, đồng thời cũng đềxuất một số gợi ý chính sách.1. Giới thiệu Nhiều năm qua Việt Nam đã khởi xướng chính sách đổi mới, mở cửa và đãđạt được những thành tựu ban đầu rất đáng khích lệ. Tăng trưởng kinh tế nhanhtrong hai thập niên qua đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới, từ một nền kinh tếchậm phát triển trở thành nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Quá trình cảicách kinh tế đã giúp hình thành một hệ thống kinh tế đa ngành và có nhiều thànhphần tham gia. Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế tư nhân khiến khả năngchi phối của khu vực quốc doanh trong tổng thể nền kinh tế ngày càng giảm.Cùng với khu vực FDI, những lực lượng này đang ngày càng đóng một vai tròlớn hơn đối với các hoạt động kinh tế cũng như các mục tiêu xã hội như tạo việclàm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, trong những năm qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫnchủ yếu dựa vào đầu tư công và thương mại quốc tế hơn là dựa vào sức cầu trongnước. Trong đó, thương mại quốc tế đóng góp rất lớn cho tốc độ tăng trưởng kinhtế từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đến nay. Mặc dù xuất khẩu tăngtrưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu có hiệu quả và năng lực cạnh tranh 367không cao, xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các ngành hàng thâm dụng lao động,công nghệ thấp như: dệt may, giày dép, và các ngành hàng xuất khẩu phần lớndưới dạng nguyên liệu thô, hàm lượng chế biến và giá trị gia tăng thấp như: nôngnghiệp, đặc biệt là thủy sản. Hơn nữa, tốc độ cải cách và hội nhập của nền kinh tếViệt Nam vẫn khá chậm chạp. Nền kinh tế cơ bản vẫn chưa hình thành các cơ sởcủa sự tăng trưởng bền vững khi các doanh nghiệp nhà nước được xem là xươngsống của nền kinh tế vẫn thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ khiến cho hiệu suất tăngtrưởng kém hiệu quả. Kế hoạch cải cách doanh nghiệp nhà nước được đề ra vớinhiều tham vọng song không kế hoạch nào được thực hiện đúng lộ trình trongnhiều năm qua. Trong khi đó, khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự mạnh mẽ hơn donội lực yếu kém. Sau những nỗ lực thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúcnền kinh tế, để có thể tiến thêm một bước dài trên con đường cải cách, việc thúcđẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới bằng cách thamgia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một trong nhữngbước đi quan trọng và đầy quyết đoán của Việt Nam trong hội nhập quốc tế vớikỳ vọng tạo dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh thực chất, gia tăng hơn nữanhững lợi ích, nâng cao vị thế kinh tế và trình độ phát triển của Việt Nam. Thamgia TPP là một sự kiện lịch sử đặc biệt trong quá trình hội nhập của Việt Nam sausự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007. TPP được đánh giá là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong nhữngnăm đầu của thế kỷ XXI với các tiêu chuẩn cao, toàn diện và có phạm vi ảnhhưởng rộng lớn. TPP tập hợp 12 quốc gia có quy mô và mức độ phát triển khácnhau thuộc vành đai Thái Bình Dương bao gồm: Mỹ, Nhật Bản, Canada,Singapore, Australia, New Zealand, Malaysia, Chile, Mexico, Việt Nam, Peru vàBrunei tạo thành một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhất toàn cầu với hơn 790triệu dân, chiếm gần 25% diện tích thế giới, 40% GDP và 30% giá trị thương mạitoàn cầu. Các nước tham gia TPP kỳ vọng thỏa thuận thương mại tự do lớn nhấtthế giới này sẽ giúp hỗ trợ việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, phát triểntoàn diện và đổi mới, thúc đẩy thương mại tự do trên khắp khu vực châu Á - TháiBình Dương. Trong 12 thành viên tham gia TPP, Việt Nam hiện đứng ở vị trí thứ 8 vềdiện tích, thứ 8 về xuất nhập khẩu nhưng có trình độ kinh tế thuộc hàng thấp nhấtcả về quy mô nền kinh tế cũng như mức GDP bình quân đầu người. Trong quanhệ thương mại với các nước TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu tại 7/11 thị trường368của TPP. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào 11 thành viên còn lại của TPPchiếm khoản ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiệp định TPP Thương mại quốc tế Kế hoạch cải cách doanh nghiệp Thương mại tự do Hội nhập kinh tế quốc tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 428 0 0
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần 2): Phần 1
257 trang 404 6 0 -
4 trang 368 0 0
-
Những hạn chế trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp khắc phục hạn chế
18 trang 348 0 0 -
71 trang 228 1 0
-
Một số điều luật về Thương mại
52 trang 176 0 0 -
14 trang 173 0 0
-
Một số hạn chế trong chính sách thuế
3 trang 173 0 0 -
11 trang 172 4 0
-
3 trang 167 0 0