Bài viết Một số phong tục làng Việt liên quan đến việc xây dựng, tu bổ các di tích kiến trúc nghệ thuật làm rõ các khía cạnh của hai phong tục liên quan đến việc xây dựng và tu bổ di tích của làng xã người Việt xưa kia. Đó là tục đặt hậu và tục công đức.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số phong tục làng Việt liên quan đến việc xây dựng, tu bổ các di tích kiến trúc nghệ thuật22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI MỘT SỐ PHONG TỤC LÀNG VIỆT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG, TU BỔ CÁC DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT Vũ Văn Hiệp Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Tóm tắt: Bài viết làm rõ các khía cạnh của hai phong tục liên quan đến việc xây dựng và tu bổ di tích của làng xã người Việt xưa kia. Đó là tục đặt hậu và tục công đức. Nguồn gốc của các tục đó là sự gắn bó của người nông dân với làng xã - nơi mà đa số họ sinh ra, lớn lên và gắn bó cả cuộc đời với cộng đồng; là niềm tin gửi gắm tâm linh vào các di tích thờ cúng. Mỗi tục có thể thức riêng, song đã huy động tới mức cao nhất sự đóng góp của các cá nhân, tổ chức trong làng vào việc xây dựng, gìn giữ các di tích thờ cúng, như đình, chùa, đền miếu, nhà thờ dòng họ,… Nhiều di tích có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao, đến nay được công nhận là di sản văn hóa quốc gia. Việc ghi nhận các đóng góp của các cá nhân, tập thể với di tích qua hai phong tục trên được thể hiện trên bia, chuông, khánh, bảng khắc gỗ. Ngày nay, tục đặt hậu không còn, tục công đức vẫn được duy trì, nhưng ở nhiều địa phương đang diễn ra theo xu hướng ganh đua, việc ghi nhận đóng góp còn bộc lộ sự phân biệt giàu nghèo, gây mất đoàn kết trong cộng đồng. Từ khóa: Đặt hậu, công đức, phong tục, làng xã, di tích. Nhận bài ngày 5.3.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 26.4.2022 Liên hệ tác giả: Vũ Văn Hiệp, Email: vuhiep1301@gmail.com1. MỞ ĐẦU Hàng nghìn năm sinh sống trong các làng, các thế hệ người nông dân Việt đã tạo dựngđược một hệ thống các di tích thờ cúng, đáp ứng được yêu cầu về đời sống tâm linh trên nềnmột cơ sở kinh tế là nông nghiệp ruộng nước. Các di tích đó gồm đình (trung tâm sinh hoạtchính trị - xã hội, nơi thờ thành hoàng, là trung tâm tổ chức các sinh hoạt tâm linh, văn hóacủa làng), đền miếu (nơi chính thờ thành hoàng), chùa (nơi thờ Phật) và nhà thờ dòng họ (nơithờ tổ và nơi sinh hoạt chung của một cộng đồng huyết thống). Rất nhiều công trình tín ngưỡngtrên đây đã trở thành di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo, nhiều di tích nay đã trở thành di sảnvăn hóa quốc gia, di tích cấp quốc gia đặc biệt. Các di tích được xây dựng và bảo tồn qua nămtháng là kết quả của sự chung sức đóng góp về công, của, tâm trí của các thế hệ dân làng, nhờmột số phong tục tập quán được hình thành từ lâu đời. Bài viết này nêu các khía cạnh có liênquan đến hai phong tục có tác động, ảnh hưởng lớn trong việc hình thành và gìn giữ các di tíchthờ cúng (đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ) trong làng xã. Đó là tục đặt hậu và tục công đức.2. NỘI DUNGTẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 59/2022 232.1. Hai phong tục tiêu biểu liên quan đến xây dựng và tu bổ di tích2.1.1. Tục đặt hậu Theo Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Đính, “Hậu” nguyên nghĩa chữ Hán là “sau”. Đặt hậu(hay gửi hậu, bầu hậu) là một tục của các làng xã người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Theođó, những người không có con hoặc không có con trai hiến cho một tổ chức nào đó một sốruộng và tiền để được tổ chức đó cúng giỗ sau khi chết tại một di tích (Bùi Xuân Đính, 2012,tr. 102). Có nhiều kiểu đặt hậu: Hậu xóm (hoặc hậu họ, hậu giáp, tức đặt hậu cho xóm, hoặcgiáp, họ, người đặt hậu sẽ được các tổ chức đó làm giỗ sau khi mất); Hậu Phật hay hậu chùa(đặt hậu vào nhà chùa); Hậu thần (đặt hậu cho làng). Trong các kiểu đặt hậu trên, đặt hậu chohọ, cho chùa và cho làng có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng và tu bổ các di tích (nhà thờdòng họ, chùa và đình) của từng tổ chức tương ứng (dòng họ, nhà chùa và cộng đồng làng). Đặt hậu cho dòng họ (hậu họ) sẽ góp phần xây dựng, tu bổ nhà thờ dòng họ - di tích luônthể hiện niềm tự hào của dòng họ. Nhiều nhà thờ bề thế, kiến trúc đẹp ngoài sự đóng góp phânbổ theo suất đinh cùng sự đóng góp tự nguyện của người trong họ, nhất là người làm quan,người giàu có, còn là kết quả của nhiều người đặt hậu cho họ). Đặt hậu Phật (hay hậu chùa)có hai dạng: người gửi giỗ bình thường và người giàu có hiến cho làng một lượng lớn tiền, của,ruộng đất để dựng mới hoặc tu bổ lớn chùa, nên được tôn làm hậu Phật và được cúng giỗ mộtcách trang trọng ở chùa sau khi mất (cả làng cúng giỗ tại chùa). Trên văn bia còn lưu cho thấy,những người đặt hậu kiểu này thường là các cung phi, cung tần (thường là người làng, songnhiều trường hợp là người nơi khác, nhưng có nhiều mối quan hệ xã hội, tình cảm với dân làng,quan hệ tâm linh với ngôi chùa); nếu là nam giới thường là văn quan, võ quan các cấp (trongđó nhiều người là thái giám, đa phần là người làng, một số là con rể của làng). Để được bầuhậu, họ phải hi ...