Một Số Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 119.55 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tiêm ethanol hoặc acetic acid vào khối u, dùng nhiệt (qua sóng cao tần=radiofrequency, vi sóng=microwave, hoặc đốt bằng laser), hoặc nhiệt độ lạnh (đốt lạnh bằng nitrogen lỏng) có thể dùng để kiểm soát các khối u tại chỗ kích thước nhỏ hơn 4-5 cm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một Số Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát Một Số Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát A- Cắt bỏ khối u tại chỗ 1- Tiêm ethanol hoặc acetic acid vào khối u, dùng nhiệt (qua sóng caotần=radiofrequency, vi sóng=microwave, hoặc đốt bằng laser), hoặc nhiệt độlạnh (đốt lạnh bằng nitrogen lỏng) có thể dùng để kiểm soát các khối u tại chỗkích thước nhỏ hơn 4-5 cm. Các kỹ thuật này thường được thực hiện xuyên da trêncơ sở điều trị ngoại trú. Nhìn chung, các thủ thuật này thường dành cho nhữngtrường hợp không đáp ứng các tiêu chuẩn cắt bỏ bằng phẫu thuật nhưng vẫn còn làứng viên cho những phương pháp điều trị hướng đến gan dựa trên cơ sở bệnh vẫncòn giới hạn ở gan. 2- Cắt bỏ u bằng sóng cao tần (Radiofrequency ablation=RFA): Là đưa năng lượng nhiệt của sóng cao tần đến carcinom tế bào gan(hepatocellular carcinoma) để gây hoại tử khối u. Trong thời gian thực hiện RFA,một dòng sóng xung cao tần đổi chiều được truyền qua đầu điện cực vào phần môxung quanh. Các ions trong mô sẽ di chuyển theo hướng của dòng xung đổi chiềutạo ra sự ma sát và làm nóng mô. Khi nhiệt độ trong mô tăng trên 60°C, các tế bàokhối u bắt đầu chết dẫn đến một vùng hoại tử. Kim điện cực thường được đưaxuyên qua da vào thương tổn ung thư dưới hướng dẫn của siêu âm. Thủ thuật nàycòn có thể được thực hiện qua phẫu thuật nội soi ổ bụng hoặc phẫu thuật ổ bụnghở. o RFA thường được dùng để xử lý các khối u kích thước dưới 4 cm. Đốivới các khối u nhỏ, các nghiên cứu cho thấy có kiểm soát tốt khối u ban đầu với tỉlệ tái phát tại chỗ trung bình là 5-6% trong 20 tháng đầu tiên. Việc điều trị cáckhối u lớn hơn sẽ dẫn đến tỉ lệ tái phát tại chỗ cao hơn rất nhiều. Không may là cómột tỉ lệ đáng kể bệnh nhân sau này sẽ phát triển bệnh lý trong gan và ngoài gan từnhững tổn thương vi-di căn có sẵn từ trước đó. RFA thường được dung nạp tốt,nhưng đã có báo cáo về những biến chứng như sốt, đau, chảy máu, tràn dịch màngphổi, tụ máu và tăng transaminases. o Tiêm ethanol hoặc acetic acid qua da để tiêu huỷ khối u được dành chonhững trường hợp u có kích thước nhỏ; tuy nhiên, ở nhiều nơi, việc thực hiện dễdàng và tính hiệu quả của RFA đã thay thế các kỹ thuật cổ điển hơn. o Xạ trị bị hạn chế bởi biến chứng viêm gan do tia xạ có liên quan đến liềudùng, khiến việc chiếu tia ngoại vi gặp trở ngại ở liều lượng hiệu quả để tiêu diệtkhối u. Có thể dùng liều 2500 cGy với mục đích điều trị tạm bợ. o Hệ thống CyberKnife là một công nghệ mới sử dụng robot phối hợp vớihướng dẫn bằng hình ảnh học để chiếu các tia năng lượng cao và rất tập trung vàokhối u, đồng thời hạn chế nhiễm tia xạ đến mức tối thiểu cho phần mô gan bìnhthường chung quanh. Phẫu thuật lập thể bằng tia xạ với CyberKnife (CyberKnifestereotactic radiosurgery) là một công cụ điều trị mới đầy hứa hẹn cho các tổnthương HCC. Hiện nay, mới chỉ có một số trung tâm y tế đủ điều kiện để thực hiệnphương pháp này. Hiệu quả lâu dài đối với các thương tổn HCC còn cần được theodõi, xác định thêm. B- Thuyên tắc hoá chất (Chemoembolization) Là phương pháp đưa trực tiếp một nồng độ cao các hoá chất trị liệu vàokhối HCC qua đường động mạch gan, nguồn cung cấp máu chủ yếu cho khối u. Phần mô lành còn lại của gan được chừa lại do nguồn cung cấp máu chủyếu từ tĩnh mạch cửa. Các chất gây thuyên tắc như cellulose, các vi cầu (microspheres), chất dầu(lipoidal), bọt gelatin xốp được dùng để chuyển tải các thuốc hoá trị (mitomycin,doxorubicin, cisplatin) vào khối u qua ngã động mạch gan. Tình trạng bệnh phát sinh từ thủ thuật này tuỳ thuộc phần lớn vào mức độxơ gan. Nhìn chung, các bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch cửa, bệnh lý não,hoặc tắc mật không là ứng viên của phương pháp thuyên tắc hoá chất(chemoembolization). Tỉ lệ đáp ứng khoảng 60-80%. Ngoài ra, 2 thử nghiệm lâm sàng gần đây ởTây Ban Nha và Hong Kong cho thấy có cải thiện độ sống còn một cách khiêmtốn khi dùng doxorubicin (Adriamycin) hoặc cisplatin gây thuyên tắc so với chămsóc hỗ trợ đơn thuần ở những bệnh nhân có HCC quá chỉ định phẫu thuật. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một Số Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát Một Số Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát A- Cắt bỏ khối u tại chỗ 1- Tiêm ethanol hoặc acetic acid vào khối u, dùng nhiệt (qua sóng caotần=radiofrequency, vi sóng=microwave, hoặc đốt bằng laser), hoặc nhiệt độlạnh (đốt lạnh bằng nitrogen lỏng) có thể dùng để kiểm soát các khối u tại chỗkích thước nhỏ hơn 4-5 cm. Các kỹ thuật này thường được thực hiện xuyên da trêncơ sở điều trị ngoại trú. Nhìn chung, các thủ thuật này thường dành cho nhữngtrường hợp không đáp ứng các tiêu chuẩn cắt bỏ bằng phẫu thuật nhưng vẫn còn làứng viên cho những phương pháp điều trị hướng đến gan dựa trên cơ sở bệnh vẫncòn giới hạn ở gan. 2- Cắt bỏ u bằng sóng cao tần (Radiofrequency ablation=RFA): Là đưa năng lượng nhiệt của sóng cao tần đến carcinom tế bào gan(hepatocellular carcinoma) để gây hoại tử khối u. Trong thời gian thực hiện RFA,một dòng sóng xung cao tần đổi chiều được truyền qua đầu điện cực vào phần môxung quanh. Các ions trong mô sẽ di chuyển theo hướng của dòng xung đổi chiềutạo ra sự ma sát và làm nóng mô. Khi nhiệt độ trong mô tăng trên 60°C, các tế bàokhối u bắt đầu chết dẫn đến một vùng hoại tử. Kim điện cực thường được đưaxuyên qua da vào thương tổn ung thư dưới hướng dẫn của siêu âm. Thủ thuật nàycòn có thể được thực hiện qua phẫu thuật nội soi ổ bụng hoặc phẫu thuật ổ bụnghở. o RFA thường được dùng để xử lý các khối u kích thước dưới 4 cm. Đốivới các khối u nhỏ, các nghiên cứu cho thấy có kiểm soát tốt khối u ban đầu với tỉlệ tái phát tại chỗ trung bình là 5-6% trong 20 tháng đầu tiên. Việc điều trị cáckhối u lớn hơn sẽ dẫn đến tỉ lệ tái phát tại chỗ cao hơn rất nhiều. Không may là cómột tỉ lệ đáng kể bệnh nhân sau này sẽ phát triển bệnh lý trong gan và ngoài gan từnhững tổn thương vi-di căn có sẵn từ trước đó. RFA thường được dung nạp tốt,nhưng đã có báo cáo về những biến chứng như sốt, đau, chảy máu, tràn dịch màngphổi, tụ máu và tăng transaminases. o Tiêm ethanol hoặc acetic acid qua da để tiêu huỷ khối u được dành chonhững trường hợp u có kích thước nhỏ; tuy nhiên, ở nhiều nơi, việc thực hiện dễdàng và tính hiệu quả của RFA đã thay thế các kỹ thuật cổ điển hơn. o Xạ trị bị hạn chế bởi biến chứng viêm gan do tia xạ có liên quan đến liềudùng, khiến việc chiếu tia ngoại vi gặp trở ngại ở liều lượng hiệu quả để tiêu diệtkhối u. Có thể dùng liều 2500 cGy với mục đích điều trị tạm bợ. o Hệ thống CyberKnife là một công nghệ mới sử dụng robot phối hợp vớihướng dẫn bằng hình ảnh học để chiếu các tia năng lượng cao và rất tập trung vàokhối u, đồng thời hạn chế nhiễm tia xạ đến mức tối thiểu cho phần mô gan bìnhthường chung quanh. Phẫu thuật lập thể bằng tia xạ với CyberKnife (CyberKnifestereotactic radiosurgery) là một công cụ điều trị mới đầy hứa hẹn cho các tổnthương HCC. Hiện nay, mới chỉ có một số trung tâm y tế đủ điều kiện để thực hiệnphương pháp này. Hiệu quả lâu dài đối với các thương tổn HCC còn cần được theodõi, xác định thêm. B- Thuyên tắc hoá chất (Chemoembolization) Là phương pháp đưa trực tiếp một nồng độ cao các hoá chất trị liệu vàokhối HCC qua đường động mạch gan, nguồn cung cấp máu chủ yếu cho khối u. Phần mô lành còn lại của gan được chừa lại do nguồn cung cấp máu chủyếu từ tĩnh mạch cửa. Các chất gây thuyên tắc như cellulose, các vi cầu (microspheres), chất dầu(lipoidal), bọt gelatin xốp được dùng để chuyển tải các thuốc hoá trị (mitomycin,doxorubicin, cisplatin) vào khối u qua ngã động mạch gan. Tình trạng bệnh phát sinh từ thủ thuật này tuỳ thuộc phần lớn vào mức độxơ gan. Nhìn chung, các bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch cửa, bệnh lý não,hoặc tắc mật không là ứng viên của phương pháp thuyên tắc hoá chất(chemoembolization). Tỉ lệ đáp ứng khoảng 60-80%. Ngoài ra, 2 thử nghiệm lâm sàng gần đây ởTây Ban Nha và Hong Kong cho thấy có cải thiện độ sống còn một cách khiêmtốn khi dùng doxorubicin (Adriamycin) hoặc cisplatin gây thuyên tắc so với chămsóc hỗ trợ đơn thuần ở những bệnh nhân có HCC quá chỉ định phẫu thuật. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo dục đào tạo Cao đẳng-Đại học Giáo trình Giáo án Y học Bài giảng Tài liệu Đề cương Ung Thư Gan Nguyên PhátTài liệu liên quan:
-
Tài liệu thẩm định dự án đầu tư - Phần 1
42 trang 233 0 0 -
MẪU ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP dạy thêm học thêm ngoài nhà trường
3 trang 208 1 0 -
Giới thiệu môn học Ngôn ngữ lập trình C++
5 trang 205 0 0 -
CHẨN ĐOÁN XQUANG GAN VÀ ĐƯỜNG MẬT
11 trang 202 0 0 -
MẪU ĐƠN XIN XÉT TUYỂN VÀO LỚP 10 TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
2 trang 197 0 0 -
tài liệu môn Kinh tế vĩ mô_chương 1
10 trang 189 0 0 -
BÁO CÁO KHẢO SÁT ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH
33 trang 185 0 0 -
20 trang 185 0 0
-
Hình thành hệ thống điều khiển trình tự xử lý các toán tử trong một biểu thức logic
50 trang 182 0 0 -
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 179 0 0