MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 77.54 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong hệ thống chính sách xã hội chung của cả nước, chính sách xã hội nông thôn có vị trí quan
trọng và có đặc trưng riêng về tính chất, mức độ, cơ chế vận hành. Thời gian qua, chính sách này đã
và đang đi vào thực tiễn, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân ở nông thôn nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế, đòi
hỏi phải được khẩn trương hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triểân nông thôn trong tình hình
mới....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Trong hệ thống chính sách xã hội chung của cả nước, chính sách xã hội nông thôn có vị trí quan trọng và có đặc trưng riêng về tính chất, mức độ, cơ chế vận hành. Thời gian qua, chính sách này đã và đang đi vào thực tiễn, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở nông thôn nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế, đòi hỏi phải được khẩn trương hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triểân nông thôn trong tình hình mới. Tác động của chính sách xã hội đối với phát triển nông thôn Những tác động tích cực Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống người dân nông thôn. Trong những năm qua, dân số và lực lượng lao động nông thôn về mặt tỷ trọng tuy có giảm, nhưng vẫn chiếm số lượng khá lớn trong tổng dân số và lực lượng lao động xã hội và là nguồn nhân lực quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nông thôn. Tính đến năm 2005, dân số nông thôn chiếm 73,25% tổng dân số và 75,06% tổng lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù tốc độ tăng trưởng nông nghiệp thấp hơn công nghiệp và dịch vụ, nhưng yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn, nhất là khu vực nông thôn. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng kinh tế cả nước đạt bình quân 7,5%/năm, trong đó, nông, lâm, ngư đạt 3,66%/năm; đặc biệt, sản lượng lương thực có hạt từ 34,27 triệu tấn (năm 2001) đã tăng lên 39,55 triệu tấn (năm 2005), bình quân mỗi năm tăng 1,32 triệu tấn, là thành tựu rất to lớn, chẳng những đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, mà còn phục vụ tốt cho xuất khẩu (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo). Yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng nói chung, theo các nhà kinh tế, chiếm khoảng 20%, yếu tố vốn chiếm 57,5% và các yếu tố tổng hợp chiếm khoảng 22,5%. Tuy nhiên, trong nông nghiệp, yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn vì đầu tư cho nông nghiệp thấp hơn cho công nghiệp, đặc biệt trong sản xuất lương thực, yếu tố lao động đóng góp khoảng 50%. Tăng trưởng kinh tế góp phần quan trọng nâng cao đời sống người dân nông thôn. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân 1 nhân khẩu/tháng của khu vực nông thôn năm 2001-2002 là 275,13 nghìn đồng, đến năm 2003-2004 tăng lên 378,09 nghìn đồng, tăng 37,42% (cao hơn mức tăng của khu vực thành thị - 31,09%). Mức chi tiêu cũng tăng từ 232,1 nghìn đồng/tháng năm 2001-2002 lên 314,3 nghìn đồng/tháng năm 2003- 2004, tăng 35,42% (cao hơn mức tăng của thành thị - 31,06%). Một bộ phận người dân nông thôn bước đầu có tích luỹ (nhất là nhóm 4, 5), trên 2 triệu hộ dân nông thôn đạt mức thu nhập 30 triệu đồng/hộ/năm. Đối với nhóm nghèo nhất, mức thu nhập bình quân 1 khẩu/tháng năm 2003-2004 so với năm 2001-2002 cũng tăng (31,65% ở nhóm 1 và 35% ở nhóm 2 trong 5 nhóm dân cư). Tạo việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và hội nhập. Trong 5 năm (2001-2005), chúng ta đã đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư toàn xã hội bình quân đạt trên 35,1% GDP (năm 2005 đạt 36,5%), xuất khẩu được mở rộng và nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới được mở mang, đã tạo thêm được nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động, từng bước khắc phục tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, nâng cao hiệu quả và chất lượng việc làm. Trong 5 năm này, bình quân mỗi năm khu vực nông thôn tạo việc làm mới cho 938.555 người, chiếm 62% tổng số vị trí làm việc mới được tạo ra. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn tăng liên tục từ 74,37% (năm 2001) lên 80,65% (năm 2005), cũng có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn đã từng bước được cải thiện. Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp liên tục giảm từ 62,76% năm 2001 xuống 56,8% năm 2005, tương ứng lao động công nghiệp và xây dựng tăng lên 17,9% và dịch vụ 25,3%. Trong nông thôn, lao động làm nông nghiệp cũng đang giảm, đồng thời lao động làm ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng; làng nghề phát triển với tốc độ 11%/năm, hiện có khoảng 2.017 làng nghề với 1,4 triệu hộ, cả nước có khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn thu hút khoảng 10 triệu lao động (kể cả kiêm nghề), chiếm 29% lực lượng lao động nông thôn. Xoá đói giảm nghèo nhanh hơn, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nông thôn. Chính sách xoá đói giảm nghèo ở nước ta được triển khai từ năm 1992 và đến năm 2005 đã đạt được kết quả cao (từ 58,1% hộ nghèo giảm xuống còn dưới 22% - tính theo chuẩn nghèo của WB), được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới (so với mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo, chúng ta đã về đích trước 10 năm). Chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 1993 là 1,96 lần, đến năm 1998 tăng lên 3,66 lần, năm 2002 lại giảm xuống còn 2,26 lần và đến năm 2004 giảm còn 2,16 lần. Đó là một sự chênh lệch tất yếu được người dân chấp nhận, đồng thuận; chưa trở thành vấn đề xã hội bức xúc, gây mất ổn định xã hội. Người dân nông thôn được tiếp cận tốt hơn với hệ thống chính sách an sinh xã hội. Trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, ngoại trừ chính sách bảo hiểm xã hội người dân nông thôn đến nay chưa được tham gia, còn lại các chính sách khác liên quan đến bảo trợ xã hội chủ yếu đều đã đến với các đối tượng xã hội ở nông thôn. Với sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng trong chủ động dự phòng cứu trợ khẩn cấp với phương châm 4 tại chỗ, hàng năm đã cứu trợ đột xuất cho 1-1,5 triệu người ổn định cuộc sống do thiên tai, bão lụt, mất mùa, giảm thiểu thiệt hại về người và của. Số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội ngày một tăng, từ 205.314 người (năm 2001) lên 300.000 (năm 2004) và 360.000 người (2005). Trong 5 năm qua, đã cai nghiện cho 184.277 lượt người, giáo dục chữa trị, phục hồi chức nă ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Trong hệ thống chính sách xã hội chung của cả nước, chính sách xã hội nông thôn có vị trí quan trọng và có đặc trưng riêng về tính chất, mức độ, cơ chế vận hành. Thời gian qua, chính sách này đã và đang đi vào thực tiễn, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở nông thôn nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng còn không ít những tồn tại, hạn chế, đòi hỏi phải được khẩn trương hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triểân nông thôn trong tình hình mới. Tác động của chính sách xã hội đối với phát triển nông thôn Những tác động tích cực Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống người dân nông thôn. Trong những năm qua, dân số và lực lượng lao động nông thôn về mặt tỷ trọng tuy có giảm, nhưng vẫn chiếm số lượng khá lớn trong tổng dân số và lực lượng lao động xã hội và là nguồn nhân lực quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nông thôn. Tính đến năm 2005, dân số nông thôn chiếm 73,25% tổng dân số và 75,06% tổng lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù tốc độ tăng trưởng nông nghiệp thấp hơn công nghiệp và dịch vụ, nhưng yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn, nhất là khu vực nông thôn. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng kinh tế cả nước đạt bình quân 7,5%/năm, trong đó, nông, lâm, ngư đạt 3,66%/năm; đặc biệt, sản lượng lương thực có hạt từ 34,27 triệu tấn (năm 2001) đã tăng lên 39,55 triệu tấn (năm 2005), bình quân mỗi năm tăng 1,32 triệu tấn, là thành tựu rất to lớn, chẳng những đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, mà còn phục vụ tốt cho xuất khẩu (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo). Yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng nói chung, theo các nhà kinh tế, chiếm khoảng 20%, yếu tố vốn chiếm 57,5% và các yếu tố tổng hợp chiếm khoảng 22,5%. Tuy nhiên, trong nông nghiệp, yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn vì đầu tư cho nông nghiệp thấp hơn cho công nghiệp, đặc biệt trong sản xuất lương thực, yếu tố lao động đóng góp khoảng 50%. Tăng trưởng kinh tế góp phần quan trọng nâng cao đời sống người dân nông thôn. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân 1 nhân khẩu/tháng của khu vực nông thôn năm 2001-2002 là 275,13 nghìn đồng, đến năm 2003-2004 tăng lên 378,09 nghìn đồng, tăng 37,42% (cao hơn mức tăng của khu vực thành thị - 31,09%). Mức chi tiêu cũng tăng từ 232,1 nghìn đồng/tháng năm 2001-2002 lên 314,3 nghìn đồng/tháng năm 2003- 2004, tăng 35,42% (cao hơn mức tăng của thành thị - 31,06%). Một bộ phận người dân nông thôn bước đầu có tích luỹ (nhất là nhóm 4, 5), trên 2 triệu hộ dân nông thôn đạt mức thu nhập 30 triệu đồng/hộ/năm. Đối với nhóm nghèo nhất, mức thu nhập bình quân 1 khẩu/tháng năm 2003-2004 so với năm 2001-2002 cũng tăng (31,65% ở nhóm 1 và 35% ở nhóm 2 trong 5 nhóm dân cư). Tạo việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và hội nhập. Trong 5 năm (2001-2005), chúng ta đã đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư toàn xã hội bình quân đạt trên 35,1% GDP (năm 2005 đạt 36,5%), xuất khẩu được mở rộng và nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới được mở mang, đã tạo thêm được nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động, từng bước khắc phục tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, nâng cao hiệu quả và chất lượng việc làm. Trong 5 năm này, bình quân mỗi năm khu vực nông thôn tạo việc làm mới cho 938.555 người, chiếm 62% tổng số vị trí làm việc mới được tạo ra. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn tăng liên tục từ 74,37% (năm 2001) lên 80,65% (năm 2005), cũng có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn đã từng bước được cải thiện. Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp liên tục giảm từ 62,76% năm 2001 xuống 56,8% năm 2005, tương ứng lao động công nghiệp và xây dựng tăng lên 17,9% và dịch vụ 25,3%. Trong nông thôn, lao động làm nông nghiệp cũng đang giảm, đồng thời lao động làm ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng; làng nghề phát triển với tốc độ 11%/năm, hiện có khoảng 2.017 làng nghề với 1,4 triệu hộ, cả nước có khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn thu hút khoảng 10 triệu lao động (kể cả kiêm nghề), chiếm 29% lực lượng lao động nông thôn. Xoá đói giảm nghèo nhanh hơn, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nông thôn. Chính sách xoá đói giảm nghèo ở nước ta được triển khai từ năm 1992 và đến năm 2005 đã đạt được kết quả cao (từ 58,1% hộ nghèo giảm xuống còn dưới 22% - tính theo chuẩn nghèo của WB), được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới (so với mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo, chúng ta đã về đích trước 10 năm). Chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 1993 là 1,96 lần, đến năm 1998 tăng lên 3,66 lần, năm 2002 lại giảm xuống còn 2,26 lần và đến năm 2004 giảm còn 2,16 lần. Đó là một sự chênh lệch tất yếu được người dân chấp nhận, đồng thuận; chưa trở thành vấn đề xã hội bức xúc, gây mất ổn định xã hội. Người dân nông thôn được tiếp cận tốt hơn với hệ thống chính sách an sinh xã hội. Trong hệ thống chính sách an sinh xã hội, ngoại trừ chính sách bảo hiểm xã hội người dân nông thôn đến nay chưa được tham gia, còn lại các chính sách khác liên quan đến bảo trợ xã hội chủ yếu đều đã đến với các đối tượng xã hội ở nông thôn. Với sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng trong chủ động dự phòng cứu trợ khẩn cấp với phương châm 4 tại chỗ, hàng năm đã cứu trợ đột xuất cho 1-1,5 triệu người ổn định cuộc sống do thiên tai, bão lụt, mất mùa, giảm thiểu thiệt hại về người và của. Số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội ngày một tăng, từ 205.314 người (năm 2001) lên 300.000 (năm 2004) và 360.000 người (2005). Trong 5 năm qua, đã cai nghiện cho 184.277 lượt người, giáo dục chữa trị, phục hồi chức nă ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế: Phần 1 - GS. TS Đỗ Hoàng Toàn
238 trang 411 2 0 -
Doanh nghiệp bán lẻ: Tự bơi hay nương bóng?
3 trang 388 0 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 311 0 0 -
13 lỗi thường gặp trong quản lý thay đổi
6 trang 290 0 0 -
Chống 'chạy chức, chạy quyền' - Một giải pháp chống tham nhũng trong công tác cán bộ
11 trang 286 0 0 -
2 trang 279 0 0
-
3 trang 276 6 0
-
197 trang 275 0 0
-
17 trang 257 0 0
-
18 trang 217 0 0