Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và những đòi hỏi ngày
càng cao đối với nguồn nhân lực quốc gia để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, vai trò
của việc dạy tiếng Anh trong chương trình giáo dục của Việt Nam đang trở thành một
vấn đề nóng bỏng. Và một câu hỏi không còn gì là mới mẻ lại được đặt lên bàn nghị sự
của các nhà lãnh đạo ngành giáo dục của Việt Nam, đó là “Tại sao học sinh, sinh viên
Việt Nam học tiếng Anh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một trong những thách thức lớn của việc xây dựng chương trình đào tạo ...
HỌC TIẾNG ANH 10 NĂM TRONG TRƯỜNG KHÔNG SỬ DỤNG ĐƯỢC:
ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN, VÀ CÓ CHĂNG MỘT GIẢI PHÁP?
TS. Vũ Thị Phương Anh
TT KT&ĐGCLĐT
Đại học Quốc gia TP. HCM
Tóm tắt
Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và những đòi hỏi ngày
càng cao đối với nguồn nhân lực quốc gia để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, vai trò
của việc dạy tiếng Anh trong chương trình giáo dục của Việt Nam đang trở thành một
vấn đề nóng bỏng. Và một câu hỏi không còn gì là mới mẻ lại được đặt lên bàn nghị sự
của các nhà lãnh đạo ngành giáo dục của Việt Nam, đó là “Tại sao học sinh, sinh viên
Việt Nam học tiếng Anh trong nhà trường từ phổ thông đến đại học tổng cộng trên dưới
10 năm mà vẫn không thể sử dụng được?”
Câu hỏi đã cũ này chẳng phải là chưa bao giờ được trả lời. Chỉ riêng trong thập niên
1996-2006, nhiều biện pháp cải cách khác nhau đã được áp dụng nhằm nâng cao hiệu
quả của việc dạy và học tiếng Anh trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân (Đỗ Huy
Thịnh, 2006). Có thể nói, hầu hết mọi khía cạnh của việc dạy và học tiếng Anh ở mọi
trình độ và mọi bậc học đều đã trải qua những thay đổi lớn, từ việc đào tạo và bồi dưỡng
giáo viên, đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị và tài liệu
tham khảo, cải cách chương trình, tăng thời lượng giảng dạy, thay đổi giáo trình, cho
đến việc cải cách phương pháp kiểm tra đánh giá và công nhận trình độ của người học.
Tuy nhiên, kết quả của tất cả những nỗ lực nói trên chỉ đem lại những kết quả nhỏ nhoi
so với yêu cầu của thực tế, và năng lực sử dụng tiếng Anh hạn chế của nguồn nhân lực
Việt Nam vẫn là một trở lực lớn cho quá trình hội nhập kinh tế của đất nước.
Nguyên nhân của tình trạng này là do đâu? Bài viết này nhằm đưa ra một cách lý giải
mới cho sự kém hiệu quả của việc dạy và học tiếng Anh cũng như các nỗ lực cải cách tại
Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra đề xuất cho một giải pháp khả thi để cải thiện
tình hình trong thời gian tới.
---------------------
Theo quan điểm của người viết, sự kém hiệu quả của việc giảng dạy tiếng Anh hiện nay
chẳng phải do ngành giáo dục Việt Nam thiếu quyết tâm, thiếu chính sách, thiếu nguồn
lực hoặc thiếu điều kiện, mà chủ yếu là do sự hiểu biết không đầy đủ về toàn bộ quá
trình dạy và học, dẫn đến sự thiếu thống nhất về mục tiêu giữa các bên có liên quan,
khiến cho các nỗ lực cải cách vừa trùng lắp, vừa thiếu hụt, lại vừa cản trở lẫn nhau. Để
khắc phục tình trạng này, người viết đề nghị sử dụng Khung quy chiếu chung châu Âu
(tiếng Anh là Common European Framework of Reference, viết tắt là CEFR) để mô tả
toàn bộ quá trình đào tạo tiếng Anh ở nhà trường từ phổ thông đến đại học, giúp cho tất
cả các bên có liên quan – từ người học, giảng viên, người thiết kế chương trình, biên soạn
giáo trình, kiểm tra đánh giá năng lực và công nhận trình độ, đến các nhà tuyển dụng, và
trên nữa là các nhà chính sách giáo dục – có thể thảo luận bằng một ngôn ngữ chung để
xây dựng một mục tiêu thống nhất nhằm tập trung nguồn lực cho việc nâng cao hiệu quả
dạy và học tiếng Anh tại Việt Nam.
Nguyên nhân và giải pháp của tình trạng “học 10 năm không sử dụng được tiếng Anh”
nêu trên sẽ được trình bày trong bài viết này thành 3 phần chính. Phần 1 của bài viết điểm
lại những điểm bất cập trong việc tổ chức giảng dạy tiếng Anh ở bậc đại học tại Việt
Nam theo một nghiên cứu có quy mô lớn được thực hiện cách đây vài năm tại TP HCM,
và thảo luận mức độ áp dụng cũng như hiệu quả của các biện pháp cải thiện đã được đề
xuất trong nghiên cứu nói trên. Từ những thực tế nêu ra ở Phần 1, Phần 2 của bài viết tập
trung chứng minh rằng nguyên nhân sâu xa của sự thiếu thống nhất về mục tiêu giữa các
bên có liên quan như ta đang thấy hiện nay thật ra là do hiểu biết không đầy đủ của các
bên có liên quan về toàn bộ quá trình dạy và học, khiến cho nhận thức của mỗi bên về
những vấn đề cần giải quyết trở nên sai lầm do tầm nhìn hạn chế, chẳng khác nào các ông
thầy bói mù sờ voi. Phần 3 của bài viết đưa ra những đề xuất cụ thể cho việc sử dụng
CEFR để xây dựng một mục tiêu thống nhất cho toàn bộ quá trình dạy và học tiếng Anh
tại Việt Nam, nhằm mục đích nhanh chóng đưa tiếng Anh của Việt Nam từ một trở lực
trở thành một thế mạnh của nguồn nhân lực quốc gia trong thời gian tới.
Do chỗ đứng của người viết, các ví dụ được sử dụng trong bài viết này sẽ tập trung chủ
yếu vào việc dạy và học tiếng Anh ở đại học, và những bậc học khác chỉ được đề cập đến
khi có liên quan trực tiếp đến vấn đề được nêu.
1. Các bất cập trong việc tổ chức giảng dạy tiếng Anh bậc đại học tại Việt Nam và
các hướng giải quyết (không hiệu quả) hiện nay
Những bất cập trong việc dạy và học tiếng Anh tại Việt Nam đã được nêu lên rất nhiều
lần trên công luận, trong các hội thảo, hội nghị cũng như trong các đề tài nghiên cứu khoa
...