MỸ THUẬT CỔ Ở CHÙA ÔNG
Chúng tôi điền dã đến chùa Ông, thuộc thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên - Một vùng quê thoáng đãng, ao hồ trong mát và những di tích cổ còn lại. Địa danh cổ nơi đây, khi xưa cũng thuộc huyện Gia Lâm, bởi trên hai tấm bia đá và quả chuông chùa đều ghi: “Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Đình Luân xã, Bình Lương, Lương Xá nhị thôn, quan viên hương lão sắc mục xã thôn trưởng thượng hạ đẳng”. (Thôn Lương Xá có thể là Dương...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỸ THUẬT CỔ Ở CHÙA ÔNG Chúng tôi điền dã đến chùa Ông, thuộc thôn Bình
MỸ THUẬT CỔ Ở CHÙA ÔNG
Chúng tôi điền dã đến chùa Ông, thuộc thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên - Một vùng quê thoáng đãng, ao hồ trong mát và những di
tích cổ còn lại.
Địa danh cổ nơi đây, khi xưa cũng thuộc huyện Gia Lâm, bởi trên hai tấm bia
đá và quả chuông chùa đều ghi: “Thuận An phủ, Gia Lâm huyện, Đình Luân xã, Bình
Lương, Lương Xá nhị thôn, quan viên hương lão sắc mục xã thôn trưởng thượng hạ
đẳng”. (Thôn Lương Xá có thể là Dương Xá ở gần thôn Bình Lương bây giờ)?.
Nguồn gốc Chùa được xây dựng từ thời Lý, tôn thờ: thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua
Lý Thần Tông và thờ Phật, vẫn được duy trì cho đến tận ngày nay. Trong chùa hiện
còn tượng đồng thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lý Thần Tông (đời thứ 5 nhà Lý - cũng là
hiện thân Từ Đạo Hạnh sau sự trút xác ở núi Thày) .
Chùa Ông trải qua nhiều thời đại, chùa đã nhiều lần xuống cấp, được các thời
sau trùng tu, tu bổ. Theo các tư liệu cho biết các lần trùng tu: thời Hậu Lê vào các niên
hiệu: Dương Hòa năm thứ 6 (1640), Thịnh Đức (1653-1657), Chính Hòa năm thứ 20
(1699); các lần tu bổ vào thời Nguyễn..., lần cuối cùng được ghi trên Thượng lương
gian Tiền đường: “Trùng tu năm Kỷ Mão thời vua Bảo Đại 14” (1938).
Nghiên cứu về chùa Ông, với hiện vật cổ còn lại và những tư liệu có niên đại
còn thấy được là điều có tác dụng và ý nghĩa trong việc nhận diện rõ phong cách mỹ
thuật của các thời đã phủ trùm lên di tích cổ qua các lần trùng tu, tu bổ. Đặc biệt với
các di tích có chiều dài của lịch sử ngót ngàn năm như chùa Ông.
Chùa Ông hiện tại đang tu bổ, vẫn cố giữ những nét Kiến trúc truyền thống thời
Lê - Nguyễn. Nghiên cứu kỹ chùa Ông, thấy bổ sung nhiều tượng và đồ thờ mới làm,
song chùa vẫn còn lại những hiện vật nghệ thuật cổ. Chúng tôi còn phát hiện trong
chùa có những viên gạch cổ hình trang trí nổi. Ban khánh tiết nhà chùa cho biết:
Những viên gạch này được tìm thấy trong khi đào đất để tôn tạo chùa, tại khu vực
vườn và ao chùa.
1. Các hiện vật cổ nghệ thuật ở chùa Ông:
- Bia đá: còn lại hai cái. Đọc văn bia được biết: Một Bia làm năm Chính Hòa 24
thời vua Lê Huy Tông (1703). Và một Bia làm năm Cảnh Hưng 10 thời vua Lê Hiên
Tông (1749). Cách chạm hoa văn trên bia có ghi niên đại, giúp ta nhận diện rõ về
phong cách trang trí thời Lê.
- Chuông cổ: cao 87 cm, đường kính 66 cm. Quai chuông rồng chầu cao 43 cm.
Chuông 4 múi, 6 núm. Có 4 chữ: “Đại Thánh Hồng Chung”. Trên chuông ghi: “Can
chi năm Mậu Ngọ, tháng 12, ngày 10 đúc chuông. Tức 12 - 10 - 1738.
- Tượng cổ: có 2 tượng đồng là: “Đức Thánh ngồi tọa thiền” (cao 90 cm, vai
rộng 35 cm, và tượng “Ngựa”. Ngựa đồng được kéo ra trong các ngày lễ hội chùa Ông
hàng năm từ 7-3 đến 9-3 âm lịch. Chùa còn có 5 tượng Phật bằng gỗ. Các pho tượng
đều thuộc cuối thời Lê.
Ngoài ra còn giữ lại Bài vị : ghi “Lý Thần Tôn ngũ hoàng đế, đại thánh Từ Đạo
Hạnh tôn giả”; Thần Phả: chữ Hán sao lại năm thứ 24 đời Tự Đức (1871); Các đại tự
làm năm 1919, thời Nguyễn.
2. Những viên gạch có hình trang trí Vật linh, Chim hoa và Hoa văn.
Trong số gạch thâu gom để lăn lóc ở góc chùa, chúng tôi chọn ra những viên
gạch cổ có hình trang trí nổi để chụp ảnh, đánh số lập hồ sơ để chùa lưu giữ bảo quản.
Số lượng khoảng 60 viên (gồm gạch nguyên, gạch vỡ góc và vỡ nửa) Những gạch có
hình trang trí Vật linh, Chim hoa và Hoa văn được phân loại theo hình trang trí, bao
gồm 7 loại sau:
- Trang trí hình Rồng,
- Trang trí hình Phượng bay,
- Trang trí hình Lân,
- Trang trí hình Ngựa phi nước đại,
- Trang trí hình Chim - Hoa,
- Trang trí hình Mây quấn Nhật, Nguyệt,
- Trang trí hình Hoa văn.
Kích thước: Các viên gạch có hình trang trí vật linh: chiều rộng (từ 18cm đến
20cm), chiều dài (từ 42cm đến 44cm), dày 5cm. Các viên gạch có hình Hoa văn: chiều
rộng (từ 19 cm đến 20cm), chiều dài (từ 26cm đến 33cm), dày 7cm. Kích thước được
đo cụ thể từng viên cho thấy kỹ thuật làm gạch và nung thủ công, nên kích thước
không đồng nhất, mà chỉ là tương đối đều nhau.
ở đây chúng tôi chỉ thấy gạch, nhưng không tìm thấy dấu tích lò nung.Có thể
gạch làm từ nơi khác? chuyển về để sử dụng trang trí ở chùa. Trong số gạch cổ đó có
nhiều viên cùng một mẫu trang trí, có viên còn sót dấu vết của khuôn. Chứng tỏ đã có
sự sản xuất hàng loạt, để đáp ứng vào việc trang trí theo yêu cầu nhất định tại chùa
Ông xưa.
Các loại gạch có hình trang trí trên cho thấy: Đề tài: Long, Lân, Phượng, hay
Ngựa phi, Chim hoa, Hoa văn mây chầu mặt trăng, mặt trời; hoặc các hoa văn uốn
lượn. Đã tạo nên những mô típ trang trí sinh động trong mạch nghệ thuật truyền thống.
Nghệ thuật chủ yếu theo cách đắp nổi gần với phù điêu, tất cả mang phong cách dân
gian. Bên cạnh đó cũng có viên gạch tạo hoa văn trang trí theo lối khắc chìm (lõm
xuống).
...