Danh mục

Mỹ thuật thời Lê Trung Hưng

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 138.23 KB      Lượt xem: 53      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mỹ thuật thời Lê Trung Hưng là một giai đoạn phát triển. Tuy giai đoạn này được coi là trì trệ của xã hội Việt Nam do sự khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của xã hội phong kiến. Nhưng vì thế mà mỹ thuật thời kỳ này nhờ thế mới phát triển đến đỉnh cao, nhất là về các công trình kiến trúc - điêu khắc tiêu biểu thuộc các loại hình chùa - đình đền - lăng mộ với các chất liệu gỗ - đá - đồng đều phát triển đến đỉnh cao. Lê Trung Hưng là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mỹ thuật thời Lê Trung Hưng Mỹ thuật thời Lê Trung Hưng Mỹ thuật thời Lê Trung Hưng là một giai đoạn phát triển. Tuy giai đoạn này được coi là trì trệ của xã hội Việt Nam do sự khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của xã hội phong kiến. Nhưng vì thế mà mỹ thuật thời kỳ này nhờ thế mới phát triển đến đỉnh cao, nhất là về các công trình kiến trúc - điêu khắc tiêu biểu thuộc các loại hình chùa - đình - đền - lăng mộ với các chất liệu gỗ - đá - đồng đều phát triển đến đỉnh cao. Lê Trung Hưng là giai đoạn lịch sử khá dài, trong sự khủng hoảng trầm trọng, sâu sắc và toàn diện của chế độ phong kiến, giữa văn học và nghệ thuật lại đi theo những hướng khác nhau và những bức xúc của xã hội đã thúc đẩy nhà văn, hoạ sỹ sáng tác, do đó sự phức tạp của lịch sử đã ảnh hưởng tới nền mỹ thuật. Về nghệ thuật Phật giáo thì thời Lê Trung Hưng khá phát triển. Sự phục Hưng Phật giáo nếu ở thời Lê Sơ bị chững lại và bị thu hẹp thì thời kỳ này lại phát triển rõ rệt. Cùng với các tăng sư người Việt và lúc này một số thiền sư danh tiếng ở Trung Quốc cũng sang ta hành đạo. ở đằng ngoài cũng như đằng trong xã hội đã ổn định và nền văn hoá đã tạo dựng được một truyền thống riêng. ở đằng trong tuy là vùng đất mới, văn hoá Việt còn ở giai đoạn đầu và các chúa Nguyễn đã tiếp nhận sự nhập cư của từng đoàn người Hoa vì thế Phật giáo Trung Quốc cũng theo đường vòng phát triển vào nước ta. Với sự thâm nhập của các phái Thiền tào Đông và Lâm Tế từ Trung Quốc tràn sang, với tình hình chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài nhiều quý tộc tìm đến cửa Phật cầu cứu, tất cả đã dẫn đến việc xây dựng hoặc làm mới lại được hàng loạt chùa. Điển hình cho việc tu sửa là ở chùa Côn Sơn, chùa Côn Sơn vốn có từ thời Trần tất cả gồm 83 gian nhà 385 pho tượng. Làm thêm các tượng Quan Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt, bộ tượng hộ pháp khuyến thiện. Trừng ác, bộ tượng tam thế, 3 pho cô hồn, 1 pho Sơn Thần và Trùng tu 18 pho tượng Phật ở Thượng Điện. Việc xây dựng còn đang dở dang thì năm 1740 Trịnh Doanh lên ngôi chùa, đã ra lệnh bãi bỏ hết việc xây dựng các chùa Quán Quỳnh Lâm, Hồ Thiên, Hoa Long, Tử Trầm và Tây Phương. Bên cạnh những chùa Quán quy mô của triều đình, trong nhân dân cũng có việc sửa chữa chùa làng nhưng quy mô nhỏ chỉ nói tới ở bia chùa. Bi chùa thời Lê Trung Hưng ở những năm đầu thế kỷ XVII còn tiếp thu nhiều nét của via thời Mạc. Viền xung quanh không thể thiếu hoa dây tay mướp leo, để rồi từ những ngọn mướp leo ấy mà thể hiện dần dạng mây đao mác. ở trán bia vẫn phổ biến đề tài Lưỡng Long Triều Nguyệt , con phương có khi như gà trống cổ dài thân nhỏ, chân ngắn, không có đuôi, cánh xoè tỉa rõ từng cái lông. Tuy nhiên có một số bia như ở chùa Thái Lạc và chùa Khúc Lộng. Khải Hưng chạm 1613 ở diềm lại chạm chậu cảnh với cây hoa uốn khúc vươn lên mà mỗi khúc lại trổ những bông hoa khác nhau như sen, cúc, phù dung… để rồi ở ngọn cây hoa là chim hạc đậu ngậm nhành lá. Chùa keo Thái Bình là một công trình kiến trúc nghệ thuật điển hình được dựng năm 1632 do vợ chồng Trấn Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng cùng với bà Trần Thị Ngọc Duyên đã đứng ra hưng công xây dựng lại chùa từ tháng 8 - 1630 đến tháng 11 - 1632. Trong khuôn viên trước trước là bãi xum xuê bóng đa uốn xưa họp chợ chùa, có tam quan ngoại, sau đó đến các hồ dài chắn phía trước vài hai bên ngăn cách chùa với xã hội đời thường ồn ả, cũng để các cây mít, sung soi bóng và điều hoà ôn độ cho chùa. Bên trong là các công trình kiến trúc nối tiếp nhau trên đường trục Tam Quan nội - khu Tam Bảo thờ Phật - Nhà Gác Roi và khu điện thờ Thánh - Cuối cùng là gác chuông, hai bên và phía sau có các dãy hành lang dài. Những công trình này tạo thành nhịp điệu khi dồn dập, khi thư thái và cuối cùng vút lên bởi gác chuông 4 tầng cao 12m. Bố cục này cân xứng luôn đổi mới, vừa nghiêm trang vừa phóng túng. Tấm bia dựng năm 1632 là một tác phẩm nghệ thuật với lối trang trí rộng rãi. Diềm bia là dải băng hoa lá với chim thú, trán bia là đôi rồng uốn lượn tung hoành giữa những dao mây tua tủa, mặt trời cũng toả những tia dao mạnh mẽ như biểu thị ánh sáng chói chang, các chữ trên bia cũng được đặt trong các vòng hoa, cả sườn bia cũng là chậu cảnh nở rộ hoa, trên đó là đoạn thân sau của rồng để chui qua lòng bia thò đầu ở mặt sau trán bia. Chùa Mía ở Đường Lâm (Hà Tây) có tấm bia Sùng Nghiêm tự bi dựng năm 1634. Ngôi chùa khá khang trang do vợ chồng uy lễ hầu Nguyễn Quảng cùng các con, đã cho dỡ bỏ chùa cũ. Ngôi chùa gồm các toà Thượng Điện, Thiệu Hương, Tiền Đường, Hậu Đường và hành lang hai bên. Ngoài ra, chùa Mía còn nổi bật ở điêu khắc với gần 300 pho tượng lớn nhỏ, được bày khắp nơi trong không gian nội thất các toà nhà, tạo ra một thế giới tôn giáo huyền diệu. Các pho tượng này tượng trưng cho thế giới nhà Phật - Thế giới tâm linh mà mọi người dân muốn gửi gắm linh hồn của mình về với cõi Phật. Sống giữa môi trường nhiệt đới thiên nhiên vừa hào phóng ban phát ân huệ vừa nghiệt ngã thử thách, dân tộc ta đã hợp sức lại để tạo thế ứng xử linh hoạy: lợi dụng, cải tạo và đấu tranh nhằm khai thác và chế ngự hiệu quả nhất. Ngoài ra nạn ngoại xâm luôn thường trực, dân tộc ta giữa những thời gian dựng nước ngắn ngủi, luôn phải tiến hành giải phóng và kháng chiến trường kỳ, vinh quang nhiều nhưng phải hy sinh lớn về cả xương máu và của cải. Trong tình hình ấy, dân tộc ta phải bám lấy thực tại và vượt lên để rồi biểu hiện lại cuộc sống của mình bằng nghệ thuật - mà rõ nhất là nghệ thuật với sự cao đẹp của tâm hồn hướng thiện - có như thế con người mới có thể thoát khỏi thực tại, mỹ thuật làm cho đời sống tinh thần của con người trở nên phong phú và đa dạng hơn. Trong mỗi giai đoạn, bên cái chung có nhiều cái riêng do điều kiện cụ thể của xã hội quy định, và do đó tạo nên diện mạo mỹ thuật mà trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cần nắm rõ và tạo nên một diện mạo mỹ thuật riêng cho từng thời kỳ. Tuy nền mỹ thuật thời Lê Trung Hưng là một giai đoạn có nền mỹ thuật đạt tới đỉnh cao. Bên cạnh xây dựng những ngôi đình, chùa mới khang trang, thời Lê Trung Hưng còn cho sửa ...

Tài liệu được xem nhiều: