Danh mục

NAN KINH

Số trang: 42      Loại file: pdf      Dung lượng: 274.75 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 9,000 VND Tải xuống file đầy đủ (42 trang) 0
Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu nan kinh, y tế - sức khoẻ, y học thường thức phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NAN KINH NAN KINH NAN 1 Nhất Nan viết: “Thập nhị kinh giai hữu động mạch. Độc thủ thốn khẩu dĩ quyết ngũtạng lục phủ tử sinh cát hung chi pháp hà vị dã ?” - Nhiên: “ Thốn khẩu giả, mạch chi đạihội, thủ Thái âm chi mạch động dã. Nhân nhất hô, mạch hành tam thốn, nhất hấp mạchhành tam thốn, hô hấp định tức, mạch hành lục thốn. Nhân nhất nhật nhất dạ, phàm nhấtvạn tam thiên ngũ bạch tưc, mạch hành ngũ thập độ, chu ư thân , lậu thủy há bách khắcVinh Vệ hành Dương nhị thập ngũ độ, hành Âm nhị thập ngũ độ, vi nhất chu dã. Cố ngũthập độ phục hội ư thủ Thái âm thốn khẩu giả ngũ tạng lục phủ chi sở chung thỉ, cố phápthủ ư Thốn khẩu dã”. * Điều 1 Nan nói: “12 kinh đều có động mạch nhưng chỉ cần thủ mạch ở Thốn khẩu đểlàm phép đoán việc lành dữ, chết sống của ngũ tạng lục phủ mà thôi. Nói như vậy cónghĩa là gì ? Thực vậy: “Thốn khẩu là nơi đại hội của mạch, là động mạch của kinh thủ Thái âm.Con người mỗi lần hô (thở ra) thì mạch hành 3 thốn, mỗi lần hấp ( thở vào) mạch cũnghành 3 thốn. Hô hấp định tức, mạch hành 6 thốn. Con người mỗi ngày đêm thở gồm13.500 tức, mạch hành 50 độ, chu 1 vòng thân thể, lậu thủy ( nước chảy xuống ) chảy đầy100 khắc,khí Vinh Vệ vận hành ở dương phận 25 độ, vận hành ở âm phận cũng 25 độ,thành 1 chu. Cho nên phép chẩn phải thủ mạch Thốn khẩu”. NAN 2 Điều 2 Nan ghi: “ Mạch có Xích và có Thốn, nghĩa là thế nào? Thực vậy, Xích và Thốn là nơi đại yếu hội của mạch. Từ ( vị trí bộ ) Quan cho đến (vịtrí bộ) Xích, gọi là ‘Xích nội’, thuộc về phần Âm khí quản trị. Từ bộ Quan cho đến huyệtNgư tế gọi là ‘Thốn nội’, thuộc về phần Dương khí quản trị. Cho nên tách 1 phần của Thốn làm Xích, tách 1 phần của Xích làm Thốn. Cho nên, Âm được 1 thốn trong xích nội và Dương được 9 phân trong Thốn nội. Sựchung thỉ của Xích và Thốn gồm có ‘1 thốn và chín phân’. Đó là ý nghĩa để gọi tên Xíchvà Thốn vậy NAN 3 * Điều 3 Nan ghi: “Mạch có Thái quá, có Bất cập, có Âm Dương tương thừa, có Phúc,có Dật, có Quan, có Cách, nói thế nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Phía trước Quan là nơi động của Dương, mạch phải (dương) hiện ra 9 phânmà Phù. Nếu quá (mức) thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn thì phép gọi là Bất cập.Nếu nó đi thẳng lên đến huyệt Ngư tế thì gọi là Dật, là Ngoại quan, Nội cách. Đây làmạch “Âm thừa”. Phía sau Quan là nơi động của Âm, mạch phải hiện ra 1 thốn mà Trầm. Nếu quá (mức)thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn thì phép gọi là Bất cập. Nếu nó đi thẳng nhập vàohuyệt Xích trạch thì gọi là Phúc, là Nội quan, Ngoại cách. Đây là mạch “Dương thừa”. Cho nên nói rằng: “Nếu gặp phải mạch Phúc và mạch Dật thì đó là mạch thuộc chântạng. Con người (gặp trường hợp này) không bệnh cũng chết”. NAN 4 * Điều 4 Nan ghi:“Mạch có cái phép Âm Dương. Nói như vậy nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Thở ra (hô xuất) do Tâm và Phế, hít vào (hấp nhập) do Thận và Can. Trongkhoảng hô và hấp, Tỳ nhận lấy “cốc” và “vị”. Mạch của nó ở trung (giữa). Phù thuộc Dương, Trầm thuộc Âm. Đó là ý nghĩa của Âm Dương vậy. “Nếu Tâm và Phế đều Phù, làm thế nào có thể phân biệt được ?” Thực vậy: “Phù mà Đại Tán, đó là mạch của Tâm; Phù mà Đoản Sắc, đó là mạch củaPhế”. “Nếu Thận và Can đều Trầm, làm thế nào có thể phân biệt được ?” Thực vậy: “Lao mà Trường, đó là mạch của Can; khi đè ngón tay xuống thấy Nhu, đưangón tay lên thấy Thực, đó là mạch của Thận”. Tỳ thuộc trung châu (bờ đất ở giữa), cho nên mạch của nó ở giữa. Đây là phép ÂmDương vậy. Mạch có loại “nhất Âm nhất Dương”, “nhất Âm nhị Dương”, “nhất Âm tam Dương”,có loại “nhất Dương nhất Âm”, “nhất Dương nhị Âm”, nhất Dương tam Âm”. Nói nhưvậy, thốn khẩu có 6 mạch, đều động cả ư ?” Thực vậy: “Lời nói trên đây, không có ý nói rằng cả 6 mạch đều động, mà chỉ đề cậpđến vấn đề Phù Trầm, Trường Đoản, Hoạt Sắc mà thôi”. Phù thuộc Dương, Hoạt thuộc Dương, Trường thực Dương; Trầm thuộc Âm, Đoảnthuộc Âm, Sắc thuộc Âm. Khi nói: “nhất Âm nhất Dương” là nói mạch đến Trầm mà Hoạt; “nhất Âm nhịDương” là nói mạch đến Trầm Hoạt mà Trường; “nhất Âm tam Dương” là nói mạch đếnPhù Hoạt mà Trường, có lúc 1 Trầm”. Khi nói: “nhất Dương nhất Âm” là nói mạch đến Phù mà Sắc; “nhất Dương nhị Âm” lànói mạch đến Trường mà Trầm Sắc; “nhất Dương tam Âm” là nói mạch đến Trầm Sắcmà Đoản, có lúc 1 Phù. Tất cả phải dựa vào tình trạng cụ thể của mạch khí ở mỗi đườngkinh để mà gọi tên sự thuận nghịch của bệnh”. NAN 5 * Điều 5 Nan ghi: “Mạch có khinh có trọng. Nói thế nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Lúc bắt đầu, ta nắm lấy bộ mạch, sức nặng bằng 3 hạt đậu, nh ư vậy là ta đãđắc được mạch ở phần bì mao, đó là Phế bộ; nếu ta đè nặng bằng 6 hạt đậu, như vậy là tađã đắc được mạch ở phần huyết mạch, đó là Tâm bộ; nếu ta đè nặng bằng 9 hạt đậu, nhưvậy là ta đã đắc được mạch ở phần cơ nhục, đó là Tỳ bộ; nếu ta đè nặng bằng 12 hạt đậu,như vậy là ta đắc được mạch ở phần Cân (Cân bình), đó là Can bộ, nếu ta đè mạnh đếnvùng của cốt, nâng ngón tay lên mạch sẽ đến nhanh, đó là Thận bộ. Cho nên “khinh trọnglà như thế”. NAN 6 * Điều 6 Nan ghi:“Mạch có Âm thịnh, D ương hư, có Dương thịnh Âm hư. Nói thếnghĩa là thế nào ?”. Thực vậy: “Phù mà đi tới tổn Tiểu, Trầm mà đi tới thực Đại, cho nên mới nói đó là Âmthịnh Dương hư; Trầm mà đi tới tổn Tiểu, Phù mà đi tới thực Đại, cho nên mới nói đó làDương thịnh Âm hư. Đây là nói về cái ý Âm Dương hư thực. NAN 7 * Điều 7 Nan ghi: “Kinh nói: “Mạch Thiếu dương đến lúc Đại, lúc Tiểu, lúc Đoản, lúcTrường; mạch Dương minh đến Phù Đại mà Đoản; mạch Thái dương đến Hồng Đại màTrường; mạch Thái âm đến Khẩn Đại mà Trường; mạch Thiếu âm đến Khần Tế mà Vi;mạch Quyết âm đến Trầm Đoản mà Đôn. Sáu mạch trên đến như vậy là “bình mạch” ư ?Là ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: