Danh mục

Năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản Việt Nam tại Trung Quốc

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 591.51 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam; Đặc điểm thị trường nông sản Trung Quốc và năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam tại thị trường Trung Quốc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản Việt Nam tại Trung Quốc NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TẠI TRUNG QUỐC COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE AGRICULTURAL PRODUCTS IN CHINA TS Nguyễn Thị Thu Hà - ThS Nguyễn Thị Huyền Trân – ThS Trần Thị Phương Thủy - ThS Tô Thùy Trang - Huỳnh Minh Trí Trường Đại học Ngoại thương CS2 tại TP.HCM Tóm tắt Trung Quốc hiện tại đang là một trong những thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam. Năm 2013, xuất khẩu nhóm hàng nông sản, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc (bao gồm cả gạo) đạt 4,14 tỷ USD. Xuất khẩu hàng nông sản chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2010 - 2012 đạt 35,9% và chiếm 33,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với thế giới. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường này trong năm 2014 lên tới hơn 8 tỉ USD, chiếm khoảng 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước. Với nhiều điểm tương đồng về mặt tự nhiên, địa lý, truyền thống văn hóa, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu nông sản được Việt Nam ưu tiên do đạt được những ưu thế về giá cả, chất lượng, thị trường tiêu thụ rộng lớn, thị hiếu người tiêu dùng, văn hóa tiêu dùng và thói quen tiêu dùng tương đối đa dạng và gần gũi. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế kể trên, thị trường Trung Quốc đồng thời tồn tại nhiều rủi ro và năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc còn thua kém nhiều nước trong khu vực ASEAN và các nước khác trên thế giới. Từ khóa: sản phẩm nông nghiệp, xuất khẩu, nhập khẩu, cạnh tranh, Việt Nam, Trung Quốc Abstract China is currently one of the largest import markets of agricultural products from Vietnam. In 2013, exports of agricultural and aquacultural products from Vietnam to China (including rice) reached 4.14 billion USD. Exports of agricultural products accounted for 31.2% of total export turnover of Vietnam’s goods to China. The export turnover of agricultural products had average growth at 35.9% and accounted for 33.9% of total export turnover of Vietnam to the world in the period 2010 - 2012. Agricultural product export turnover of Vietnam to China reached more than 8 billion US dollars in 2014, accounting for about 25% of total agricultural export turnover of the country. With many similarities in terms of nature, geography, culture and tradition, China is an agricultural export market priorized by Vietnam to achieve advantages of price, quality, large consumer market, consumer tastes, consumer culture and consumer habits that are relatively diverse and approachable. However, in addition to the above-mentioned advantages, Chinese market also exists many risks and competitiveness of agricultural products exported fromVietnam to 955 China is worse than that of many countries in the ASEAN region and other countries in the world. Key words:agricultural products, export, import, competitiveness, Vietnam, China 1. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của một mặt hàng tại một thị trường xuất khẩurất đa dạng, mỗi chỉ tiêu có những ưu và nhược điểm riêng. Phạm vi bài nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu:chỉ số thương mại nội ngành (GL) (Trần Nhuận Kiên, 2015), chỉ số chuyên môn hóa xuất khẩu (ES) (Walid Abdmoulah, 2006), chỉ số lợi thế thương mại đối tác (Nguyễn Thường Lạng, 2011). Thương mại nội ngànhcho thấy mức độ trao đổi các mặt hàng trong cùng một ngành giữa hai quốc gia. Chỉ số thương mại nội ngành được đưa ra bởi Paul Krugman (1979) để giải thích quan hệ thương mại nội ngành dựa trên giả thuyết lợi thế nhờ quy mô và tính đa dạng của sản phẩm. Hai đặc tính này giúp người sản xuất giữ vị thế độc quyền đối với sản phẩm của mình ngay cả khi chịu sự cạnh tranh từ sản phẩm của đối thủ khác. Thương mại nội ngành sẽ đem lại cho sản phẩm sự đa dạng hóa, giảm chi phí, giá cả nhờ hiệu suất tăng dần theo quy mô (Paul Krugman, 1979). Chỉ số thương mại nội ngành được sử dụng để phân tích tầm quan trọng của chính sách thương mại nội ngành tại các quốc gia riêng lẽ. Trong trường hợp áp dụng cho xuất khẩu của một quốc gia, chỉ số thương mại nội ngành cho thấy mức độ trao đổi nội ngành giữa hai quốc gia và được tính bằng công thức: | Eyz − Iyz | GL = 1 − Eyz + Iyz GL: Chỉ số thương mại nội ngành Eyz : Giá trị xuất khẩu mặt hàng X của quốc gia Y sang thị trường Z Iyz : Giá trị nhập khẩu mặt hàng X của quốc gia Y sang thị trường Z Chỉ số thương mại nội ngành nằm trong khoảng từ 0 tới 1. Chỉ số thương mại nội ngành bằng 0 chứng tỏ không có thương mại nội ngành giữa hai quốc gia. Chỉ số thương mại nội ngành bằng 1 cho thấy trao đổi giữa hai quốc gia hoàn toàn mang tính trao đổi nội ngành. Chỉ số thương mại nội ngành giảm cho thấy sự mất cân đối về thương mại. Sự gia tăng liên tục của chỉ số thương mại nội ngành sẽ phản ánh quá trình tập trung công nghiệp và chuyên môn hóa cao. Ngược lại, sự suy giảm của chỉ số thương mại nội ngành sẽ cho thấy sự phân tán công nghiệp. (Trần Nhuận Kiên, 2015) Chỉ số chuyên môn hóa xuất khẩusử dụng để nghiên cứu năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua đánh giá cơ cấu và yếu tố quyết định xuất khẩu của quốc gia đó.Chỉ số chuyên môn hóa xuất khẩu cho thấy mức độ chuyên môn hóa xuất khẩu của sản phẩm và được tính toán dựa trên tỉ lệ giữa thị phần của sản phẩm trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đó và thị phần của sản phẩm đó trong tổng kim ngạch nhập khẩu tại một thị trường nhất định. Chỉ số chuyên môn hóa xuất khẩu được tính bằng công thức: ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: