Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu năng lượng, enzim và quá trình chuyển hóa, tài liệu phổ thông, sinh học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NĂNG LƯỢNG, ENZIM VÀ QUÁ TRÌNH CHUYỂN HÓA
NĂNG LƯỢNG, ENZIM VÀ QUÁ
TRÌNH CHUYỂN HÓA
Hằng triệu người, kể cả các vận động viên nổi tiếng như
ngôi sao hockey Wayne Gretzky, Hank Aaron vĩ đại của
bóng chày và vô địch Olympic mười môn phối hợp Bruce
Jenner đều bị tàn tật bởi bệnh viêm khớp. Cho tới gần đây,
các bác sĩ vẫn kê đơn Aspirin cho bệnh nhân để làm dịu sự
sưng tấy gây nhức nhối kinh niên ở các khớp viêm. Hàng
nghìn năm nay, các thầy thuốc ở các nền văn hóa khác nhau
đã biết rằng vỏ cây liễu có tính kháng viêm làm giảm đau
và sưng tấy. Vào năm 1829, các nhà hóa học người Đức đã
tách được thành phần có hoạt tính trong vỏ cây liễu, và sau
này trong thế kỷ đó các nhà hóa học khác đã hiệu chỉnh hóa
học nó để tạo ra một dược chất còn hiệu quả hơn-chính là
aspirin. Mặc dù loại thuốc này vẫn có tác dụng, nó có một
số tác dụng phụ không tốt như gây đau rát ở dạ dày và làm
giảm khả năng đông máu.
Chỉ khi các nhà hóa sinh học phát hiện ra cơ chế hoạt động
của aspirin thì các tác dụng có lợi và các tác dụng không
mong muốn của nó mới có thể được giải thích. Họ khám
phá ra rằng aspirin gắn kết với một amino acid đặc thù
(Serine) ở một protein gọi là Cyclooxygenase, hay COX và
gắn vào amino acid này một nhóm Acetyl. Chức năng bình
thường của COX trong cơ thể là hoạt động như một
enzyme: một chất xúc tác để đẩy nhanh sự chuyển biến một
acid béo mạch thẳng thành cấu trúc vòng. Phân tử acid béo
đi vào một đường ống trên đại phân tử enzyme, nơi nó trải
qua một biến đổi hóa học đặc hiệu, sau đó rời khỏi enzyme.
Dạng vòng của acid béo này kích thích hiện tượng viêm ở
khớp, sữa chữa các vết thương ở dạ dày và giúp đông máu.
Khi serine ở COX bị acetyl hóa bởi phản ứng với aspirin,
enzyme không còn đẩy nhanh sự sản xuất cấu trúc vòng
nữa. Không có COX sự tạo thành cấu trúc vòng vẫn xảy ra
nhưng ở tốc độ rất chậm. Vì vậy khi COX bị ức chế bởi
Aspirin, hiện tượng viêm khớp được giảm nhẹ, nhưng kèm
theo là sự hủy hoại dạ dày và sự giảm đông máu.
Quá trình tìm kiếm tiếp tục để tìm ra một loại thuốc chống
viêm tốt hơn: một loại thuốc chỉ ngăn chặn COX ở khớp.
Trong những năm của thập kỷ 90, các nhà hóa sinh đã tình
cờ thành công. Họ phát hiện ra rằng thực ra có hai loại
enzyme COX, một loại tác động vào dạ dày và các tế bào
máu (COX-1) và một loại khác tác động vào khớp (COX-
2). Khi họ xác định trình tự của hai enzyme này, họ phát
hiện ra rằng chúng chỉ khác nhau ở một amino acid: COX-1
có một Isoleucine to lớn tại vị trí Valine nhỏ hơn của COX-
2. Valine ở COX-2 làm lộ ra một đường ống bên hông đại
phân tử enzyme trong khi đường ống này bị bịt bởi
Isoleucine ở COX-1.
Các nhà sinh hóa sử dụng kiến thức về thành phần protein
và cấu trúc để thiết kế ra các phân tử nhầm mục đích ngăn
chặn một cách đặc hiệu đường ống COX-2 mà không có
ảnh hưởng gì đến COX-1. Những loại thuốc mới (celecoxib
và rofecoxib) làm dịu các triệu chứng viêm khớp mà không
gây tác dụng phụ đến dạ dày và máu. Sự phát triển nhanh
chóng của các loại thuốc trên đại diện cho một nghiên cứu
điển hình trong quá trình thiết kế tân dược: ngăn chặn một
sự chuyển biến hóa học cụ thể trong tế bào bằng cách ngăn
chặn enzyme đặc hiệu xúc tác cho nó.
Hàng ngàn các phản ứng có xúc tác enzyme xảy ra mọi lúc
ở mọi cơ thể sinh vật, mỗi phản ứng được xúc tác bởi một
protein đặc hiệu có cấu trúc ba chiều đặc thù. Cùng với
nhau các phản ứng này tạo nên quá trình chuyển hóa, chính
là toàn bộ các hoạt động hóa học của một cơ thể sống; ở bất
kỳ thời điểm nào quá trình chuyển hóa đều gồm có hàng
nghìn các phản ứng hóa học riêng rẽ. Nhiều phản ứng
chuyển hóa có thể được phân loại là phản ứng xây đắp sự
phức tạp trong tế bào, sử dụng năng lượng để làm điều đó,
hoặc phân hủy các chất phức tạp thành các chất đơn giản
hơn và giải phóng năng lượng trong quá trình đó.
Chương này quan tâm đến năng lượng và các enzyme. Nếu
không có chúng, cả chúng ta lẫn các sinh vật khác sẽ không
có khả năng thực hiện các chức năng. Trước khi tìm hiểu
enzyme thực hiện ma thuật phân tử như thế nào chúng ta sẽ
xem xét các nguyên lý chung về năng lượng trong các hệ
sinh học.
Năng lượng và sự chuyển đổi năng lượng
Các nhà vật lý định nghĩa năng lượng là khả năng sinh
công, xảy ra khi một lực tác động vào một vật trên một
khoảng cách nào đó. Trong hóa sinh sẽ thuận lợi hơn nếu ta
xem năng lượng là khả năng thay đổi. Không có tế bào nào
tạo ra năng lượng cả-mọi sinh vật sống phải thu lấy năng
lượng từ môi trường. Thực ra một trong những định luật cơ
bản của vật lý là năng lượng không thể được tạo ra hay bị
phá hủy. Tuy nhiên năng lượng có thể chuyển đổi từ dạng
này sang dạng khác và các tế bào sống thực hiện rất nhiều
những chuyển đổi năng lượng như vậy. Các quá trình
chuyển đổi năng lượng được liên kết với các chuyển đổi
hóa học xảy ra trong tế bào-như sự phá vỡ các liên kết hóa
học, sự chuyển động của các chất qua màng...v.v.
Biến đổi năng lượng liên quan đến biến đổi vật chất
Năng lượng tồn tại dưới nhiều dạng: hoá năng, quang năng
và cơ năng, ...