Nara (奈良市, Nara-shi), là thủ phủ của tỉnh Nara, thuộc vùng Kansai, gần Kyoto. Theo thống kê năm 2003, thành phố Nara có dân số là 364.869 người với mật độ 1.724 người trên 1 km2. Diện tích tòan thành phố là 211,6 km². Các thành phố kết nghĩa với Nara trên thế giới gồm Gyeongju – kinh đô cổ của vương quốc Silla thuộc miền Nam Hàn Quốc,
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nara, Cố đô cổ kính và duyên dángNara, Cố đô cổ kính và duyên dáng.Nara (奈良市, Nara-shi), là thủ phủ của tỉnh Nara, thuộc vùng Kansai, gầnKyoto. Theo thống kê năm 2003, thành phố Nara có dân số là 364.869người với mật độ 1.724 người trên 1 km2. Diện tích tòan thành phố là211,6 km².Các thành phố kết nghĩa với Nara trên thế giới gồm Gyeongju – kinh đô cổcủa vương quốc Silla thuộc miền Nam Hàn Quốc, Trường An – kinh đô cổcủa nhà Đường tại Trung Hoa, Toledo – thủ đô của Tây Ban Nha thời Trungcổ, Versailles – cung điện nổi tiếng nước Pháp và Canberra – thủ đô nướcÚc.Từ Osaka, ta có thể tới Nara bằng xe bus hoặc tàu JR (Japanese Rail), cảhai phương tiện này đều đi mất khỏang một tiếng rưỡi để tới nhà gaKintetsu. Từ đó ta nên dùng xe bus, khá rẻ và tiện lợi, để tới Công viênNara, trung tâm thành phố. Tại đây, ta có thể đi bộ để thưởng lãm hầuhết các danh thắng của thành phố.Công viên Nara (Nara Koen) là một công viên rộng ở trung tâm Nara, xâydựng vào năm 1880. Nơi đây chứa hầu hết những thắng cảnh của Naranhư Chùa Tôdaiji, Đền Kasuga Taisha, Chùa Kofukuji và Bảo tàng Quốc giaNara, một bảo tàng tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phậtgiáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do langthang. Theo Thần đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh,do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố vàthậm chí được đăng kí để thành Tài sản Quốc gia. Lũ hươu được tự dolang thang khắp công viên, có lẽ cũng nhờ phân của chúng gồm nhiều hạtnhỏ như đầu ngón tay, khô và không dính bết, không hôi lắm và được cácnhân viên liên tục quét dọn.Lọai đặc sản bánh trái nổi tiếng nhất của Nara là shika-senbei, được bàybán khắp mỗi góc phố và tại mọi dãy bán đồ lưu niệm. Tuy nhiên xin bạnđừng thử ăn bánh, shika-senbei có nghĩa là bánh xốp bột gạo dành chohươu ăn! (shika là con hươu, senbei hay ôsenbei là lọai bánh xốp bột gạođặc sản của Nhật). Một số con hươu đã đạt tới trình độ điêu luyện, tứcbiết quỳ xuống để xin bánh của khách du lịch! Hươu Nara chạy khắp nơitheo du khách để đòi ăn ôsenbệ, đôi khi lộng hành quá mức, quấy nhiễumọi người, làm bọn trẻ con khóc tóang và các cô gái hét vang vì sợ.Ngoài bánh ôsenbei, có một món đặc sản địa phương khác là Kakinohazushi, tức sushi cuốn lá hồng, vốn có nguồn gốc từ vùng Yoshino lâncận. Yamato-cha là một đặc sản khác của Nhật, tức là nước trà xanh, vịhơi chát, uống mát rất đã khát trong cái nóng của mùa hè tháng Chín ởNhật. Tại Nhật, tôi thấy thứ nước trà này, đóng vào chai nhựa 500 ml nhưnước ngọt, còn phổ biến hơn cả Coca Cola.NGUỒN GỐC TÊN GỌI NARACó một huyền thọai phố phường về nguồn gốc tên gọi của thành phố“Nara” rất phổ biến đối với người dân Triều Tiên, cho rằng từ “Nara” xuấtphát từ cách phát âm tương tự của từ “quốc gia” trong tiếng Triều Tiên.Tuy nhiên, điều này thiếu thuyết phục do đấy là một từ trong tiếng TriềuTiên hiện đại và ít có căn cứ lịch sử nào để biết được ngôn ngữ cổ Baekjethực tế ra sao vào thời kỳ Nara được hình thành. Hầu hết các nhà nghiêncứu lịch sử và ngữ văn đều cho rằng tên gọi của thành phố bắt nguồn từtiếng Nhật “nadaraka” (なだらか), vốn có nghĩa là một vùng đất bằngphẳng.ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NARAThời kỳ Yayoi: các công cụ bằng đá cổ đại cùng các vật dụng đất nungthuộc thời kỳ Jomôn đã được tìm thấy trong phạm vi thành phố Nara; tuynhiên, việc phát hiện những di chỉ thuộc thời kỳ Yayoi trong các khu vựccủa thành phố như tại khu Saki, khu Kashiwagi, khu Suruga, và khuKubonoshô đã làm người ta tin rằng “các ngôi làng” này được xây dựngtrên các vùng đất phù hợp cho việc trồng lúa.Thời kỳ Kofun: Trong thế kỷ thứ tư, nhiều gia tộc có ảnh hưởng và quyềnlực đã để lại những lăng mộ đồ sộ tại lòng chảo Yamato. Trong đó, hùngmạnh nhất là gia tộc Wani, sau này đổi tên thành gia tộc Kasuga và đặcbiệt mạnh mẽ trong khu vực quanh thành phố Nara cho tới cuối thế kỷthứ sáu là một nhóm gồm gia tộc Ôya và Ono. Một thị tộc có quyền lựckhác, cư trú ở miền Tây Bắc thành phố Nara là gia tộc Hijikata, sau nàynổi tiếng dưới tên gọi thị tộc Sugawara.Thời kỳ Nara: vào năm 710 (năm Wadô thứ 3), kinh đô được dời từFujiwara-kyô ở Asuka về Heijô-kyô tại Nara, trở thành kinh đô cố định đầutiên trong lịch sử Nhật Bản (trước đó, Thiên hoàng đã từng dời đô đến hơn60 lần!). Trong vòng 70 năm sau đó, Heijô-kyô trở thành kinh đô vô cùngthịnh vượng của nước Nhật cổ. Thành phố này tọa lạc trên khu vực rộng4.3 km từ tây sang đông và 4.8 km từ bắc xuống nam cộng thêm một khuvực rộng 1.5 km từ đông sang tây và 2.4 km từ bắc xuống nam nằm vềphía đông thành phố, tên gọi là Gekyô (hay Kinh đô Bên ngoài). Thànhphố này, rực rỡ với những cung điện tuyệt đẹp, những ngôi chùa và dinhcơ quý tộc, được chia một cách có chủ đích thành từng khu bởi con phốchính, Suzaku-ôji, và những con phố lớn nhỏ khác. Trong đó, phố chínhSuzaku-ôji chạy từ Heijô-kyô thẳng xuống hướng nam xuyên qua trungtâm thành phố. Bản quy họach quy mô lớn này được cho là sao ...