Thông tin tài liệu:
Kỹ thuật pha loãng : phương pháp pha loãng trong canh và thạch, như là phương pháp được NCCLS đề nghị, có thể dùng để xác định MIC của tobramycin. Kết quả thử MIC nên được biện luận theo các tiêu chuẩn sau :MIC (mg/mL) Biện luận kết quả= 16 (R) Đề khángGiống như với phương pháp khuếch tán chuẩn mực, phương pháp pha loãng cần các vi khuẩn chứng trong phòng thí nghiệm. Bột tobramycin chuẩn mực phải tạo ra các giá trị MIC sau :Vi khuẩn Giới hạn MIC (mg/mL)E. faecalis ATCC 29212 8,0 - 32,0E. coli...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NEBCIN (Kỳ 2) NEBCIN (Kỳ 2) Kỹ thuật pha loãng : phương pháp pha loãng trong canh và thạch, như làphương pháp được NCCLS đề nghị, có thể dùng để xác định MIC của tobramycin.Kết quả thử MIC nên được biện luận theo các tiêu chuẩn sau : MIC (mg/mL) Biện luận kết quả >= 16 (R) Đề kháng Giống như với phương pháp khuếch tán chuẩn mực, phương pháp phaloãng cần các vi khuẩn chứng trong phòng thí nghiệm. Bột tobramycin chuẩn mựcphải tạo ra các giá trị MIC sau : Vi khuẩn Giới hạn MIC (mg/mL) E. faecalis ATCC 29212 8,0 - 32,0 E. coli ATCC 25922 0,25 - 1 P. aeruginosa ATCC 27853 0,12 - 2 S. aureus ATCC 29213 0,12 - 1 DƯỢC ĐỘNG HỌC Tobramycin được hấp thu nhanh sau khi tiêm bắp. Tobramycin đạt đượcnồng độ đỉnh trong huyết thanh sau khi tiêm bắp khoảng 30-90 phút. Sau một liềutiêm bắp 1 mg/kg, nồng độ tối đa trong huyết thanh lên đến 4 mg/mL, nồng độ cóthể đo được kéo dài đến 8 giờ. Nói chung, nồng độ điều trị trong huyết thanhkhoảng từ 4 đến 6 mg/mL. Khi truyền tĩnh mạch trong vòng 1 giờ, nồng độ tronghuyết thanh tương tự như tiêm bắp. Nebcin hấp thu qua đường tiêu hóa rất kém. Ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường, trừ trẻ sơ sinh, Nebcin khôngbị tích tụ trong huyết thanh khi được dùng 8 giờ một lần. Tuy nhiên, ở bệnh nhânsuy thận và trẻ sơ sinh, nồng độ kháng sinh trong huyết thanh thường cao hơn vàduy trì trong thời gian dài hơn. Vì vậy, liều dùng cho các bệnh nhân này nên đượcđiều chỉnh cho phù hợp (xem Liều lượng). Sau khi dùng qua đường tiêm, chỉ một phần nhỏ thuốc được chuyển hóa màthôi, phần lớn tobramycin được thải trừ qua sự lọc cầu thận. Độ thanh thải ở thậntương tự như độ thanh thải của creatinine nội sinh. Các nghiên cứu về siêu lọc chothấy gần như không có gắn kết với protein huyết thanh. Ở bệnh nhân có chức năngthận bình thường, 84% liều dùng xuất hiện trong nước tiểu trong 8 giờ, và lên đến93% trong 24 giờ. Nồng độ đỉnh trong nước tiểu từ 75 đến 100 mg/mL sau khi tiêm bắp mộtliều duy nhất 1 mg/kg. Sau một vài ngày điều trị, lượng tobramycin được bài tiếttrong nước tiểu tăng gần đến liều dùng hàng ngày. Khi chức năng thận suy giảm,sự bài tiết Nebcin bị chậm lại, và sự tích tụ thuốc có thể tạo ra nồng độ độc trongmáu. Thời gian bán hủy trong huyết thanh ở người bình thường là 2 giờ. Thờigian bán hủy tỉ lệ nghịch với độ thanh thải creatinine, và nên điều chỉnh thời biểuliều dùng theo mức độ suy thận (xem Liều lượng). Ở bệnh nhân được thẩm phân,có thể 25-70% liều dùng có thể được thải trừ, tùy thuộc vào thời gian và cách thẩmphân. Tobramycin có thể được tìm thấy trong mô, dịch cơ thể sau khi tiêm thuốc.Nồng độ thuốc trong mật và phân thường thấp, điều này cho thấy thuốc bài tiếtqua mật rất ít. Sau khi tiêm, nồng độ tobramycin trong dịch não tủy thấp. Nồng độnày phụ thuộc liều dùng, tốc độ thâm nhập thuốc, mức độ viêm màng não. Thuốccũng được tìm thấy trong đàm, dịch màng bụng, hoạt dịch, dịch ổ áp-xe. Thuốc cóthể đi qua màng nhau. Nồng độ thuốc tại vỏ thận cao gấp nhiều lần so với nồng độbình thường trong huyết thanh. Probenecid không ảnh hưởng đến sự vận chuyển của tobramycin ở ốngthận.