Bệnh nhân có tổn thương chức năng thận Nếu có thể nên theo dõi nồng độ tobramycin trong huyết thanh trong thời gian điều trị.
Sau liều tải 1 mg/kg, các liều kế tiếp phải được điều chỉnh, giảm liều với khoảng cách dùng mỗi 8 giờ, hoặc với liều bình thường nhưng khoảng cách dài hơn. Cả hai biện pháp này được đề nghị khi không thể đo trực tiếp nồng độ tobramycin trong huyết thanh, mà dựa trên độ thanh thải creatinine hay nồng độ creatinine huyết thanh, vì các giá trị này có liên quan với...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NEBCIN (Kỳ 6)
NEBCIN
(Kỳ 6)
Bệnh nhân có tổn thương chức năng thận
Nếu có thể nên theo dõi nồng độ tobramycin trong huyết thanh trong thời
gian điều trị.
Sau liều tải 1 mg/kg, các liều kế tiếp phải được điều chỉnh, giảm liều với
khoảng cách dùng mỗi 8 giờ, hoặc với liều bình thường nhưng khoảng cách dài
hơn. Cả hai biện pháp này được đề nghị khi không thể đo trực tiếp nồng độ
tobramycin trong huyết thanh, mà dựa trên độ thanh thải creatinine hay nồng độ
creatinine huyết thanh, vì các giá trị này có liên quan với thời gian bán hủy của
tobramycin. Khi áp dụng thời biểu liều dùng dựa theo một trong hai phương pháp
trên, nên kết hợp với theo dõi trên lâm sàng thật cẩn thận, và nên được điều chỉnh
khi cần thiết. Không áp dụng hai phương pháp này khi đang tiến hành thẩm phân
cho bệnh nhân.
Giảm liều với khoảng cách 8 giờ : Khi độ thanh thải creatinine không quá
70 mL mỗi phút, hoặc khi biết trị số creatinine huyết thanh, có thể xác định liều
dùng bằng cách nhân liều bình thường trong Bảng 1 với số phần trăm của liều bình
thường ở biểu đồ kèm theo đây.
Một cách hướng dẫn khác sơ bộ để ước lượng liều dùng mỗi 8 giờ (ở bệnh
nhân có trị số creatinine máu ổn định) là chia liều bình thường cho trị số creatinine
huyết thanh của bệnh nhân.
Liều bình thường với khoảng cách dùng kéo dài : Nếu không tính được độ
thanh thải creatinine, và tình trạng bệnh nhân ổn định, có thể tính được thời gian
cách nhau giữa các liều dùng thuốc (tính bằng giờ) theo liều trong Bảng 1 bằng
cách nhân nồng độ creatinine huyết thanh cho 6.
Liều dùng cho bệnh nhân béo phì : Có thể tính bằng phép cộng trọng lượng
ước đoán bình thường của bệnh nhân, với trọng lượng thừa 40% so với trọng
lượng bình thường để tính liều dùng mg/kg.
Tiêm bắp : Có thể tiêm Nebcin bằng cách rút một lượng thuốc vừa đủ trực
tiếp từ lọ thuốc, hoặc dùng loại ống tiêm có sẵn thuốc.
Tiêm tĩnh mạch : Đối với người lớn lượng dịch pha thường là 50-100 mL
(sodium chloride 0,9%, dextrose 5%). Đối với trẻ em, lượng dịch pha giảm tương
ứng. Thông thường, thời gian truyền từ 20-60 phút. Không nên truyền nhanh hơn
20 phút vì nồng độ đỉnh trong huyết thanh vượt quá 12 mg/mL (xem Thận trọng
lúc dùng).
Không nên trộn Nebcin với các thuốc khác, nên dùng riêng rẽ dựa theo liều
lượng và đường dùng đã được khuyến cáo.
Trước khi dùng, nên quan sát kỹ lọ thuốc để phát hiện các tính chất bất
thường hay thay đổi màu sắc, khi dung dịch và lọ cho phép.
QUÁ LIỀU
Dấu hiệu và triệu chứng : Dấu hiệu và triệu chứng khi dùng quá liều
tobramycin phụ thuộc vào liều đã dùng, chức năng thận, tình trạng dịch thể, tuổi
tác, và có dùng đồng thời các thuốc có độc tính tương tự hay không. Độc tính có
thể xảy ra trên các bệnh nhân dùng trên 10 ngày, người lớn dùng trên 5
mg/kg/ngày, trẻ em dùng liều trên 7,5 mg/kg/ngày, bệnh nhân bị giảm chức năng
thận nhưng không có điều chỉnh liều dùng phù hợp.
Độc trên thận do aminoglycoside tương ứng chặt chẽ với diện tích vùng
nằm dưới đường cong của biểu đồ biểu diễn nồng độ huyết thanh so với thời gian.
Độc với thận dễ xảy ra hơn nếu nồng độ tồn lưu trong máu không thấp hơn 2
mg/mL. Độc tính trên thận tỉ lệ thuận với nồng độ trung bình trong máu. Những
bệnh nhân dễ có nguy cơ bị hoại tử cấp ống thận bao gồm: bệnh nhân cao tuổi có
chức năng thận bất thường, đang dùng những thuốc có tác dụng phụ gây độc với
thận khác, hoặc giảm thể tích tuần hoàn. Quá liều aminoglycoside gây ra độc tính
trên thính giác và tiền đình. Độc tính này xảy ra khi điều trị trên 10 ngày, ở bệnh
nhân có chức năng thận bất thường, bệnh nhân mất nước, bệnh nhân có dùng đồng
thời thêm các thuốc khác gây độc trên thính giác. Bệnh nhân có thể không có dấu
hiệu hoặc triệu chứng, hoặc có thể bị choáng váng, chóng mặt, ù tai, mất khả năng
nghe các âm sắc cao. Các dấu hiệu, triệu chứng độc trên tai có thể chỉ bắt đầu xuất
hiện sau khi ngưng thuốc một thời gian dài.
Nghẽn thần kinh cơ hoặc liệt hô hấp có thể xảy ra sau khi dùng các
aminoglycoside. Nghẽn thần kinh cơ, suy hô hấp, liệt hô hấp kéo dài xảy ra phổ
biến hơn ở bệnh nhân có kèm bệnh nhược cơ nặng hay bệnh Parkinson. Liệt hô
hấp kéo dài cũng có thể xảy ra ở bệnh nhân dùng decamethonium, tubocurarine,
hoặc succinylcholine. Nếu xảy ra nghẽn thần kinh cơ, có thể điều trị bằng muối
calcium, nhưng cũng có thể cần đến sự hỗ trợ của máy thở.
Nếu bệnh nhân uống tobramycin, độc tính sẽ ít xảy ra hơn do
aminoglycoside hấp thu kém qua đường tiêu hóa.
Điều trị : Khi nghi ngờ bị quá liều, hãy gọi đến Trung tâm kiểm soát độc
chất trong vùng để biết được những thông tin mới nhất về điều trị quá liều. Sở dĩ
có khuyến cáo này là vì, nói chung, thông tin về điều trị trường hợp quá liều có thể
thường hay thay đổi và như thế thông tin sẽ mới hơn trong toa thuốc. Khi điều tr ...