Sau các đợt lũ lụt, môi trường sống bị ô nhiễm nặng và kiết lỵ là một loại bệnh thường gặp tại Khoa truyền nhiễm của các bệnh viện. Người bị mắc bệnh chưa phân biệt được nguyên nhân, triệu chứng lâm sàng và tác hại của bệnh này để chủ động phòng tránh và có thái độ xử trí một cách đúng đắn khi bị mắc bệnh.Có mấy loại bệnh kiết lỵ? Thông thường kiết lỵ là bệnh được gọi bằng một tên chung nhưng thật ra kiết lỵ có hai loại bệnh riêng khác nhau. Bệnh lỵ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ngập lũ và bệnh kiết lỵ Ngập lũ và bệnh kiết lỵ Sau các đợt lũ lụt, môi trường sống bị ô nhiễm nặng và kiết lỵ là mộtloại bệnh thường gặp tại Khoa truyền nhiễm của các bệnh viện. Người bị mắcbệnh chưa phân biệt được nguyên nhân, triệu chứng lâm sàng và tác hại củabệnh này để chủ động phòng tránh và có thái độ xử trí một cách đúng đắnkhi bị mắc bệnh. Có mấy loại bệnh kiết lỵ? Thông thường kiết lỵ là bệnh được gọi bằng một tên chung nhưng thật rakiết lỵ có hai loại bệnh riêng khác nhau. Bệnh lỵ trực khuẩn (Bacillary dysentery)do trực khuẩn Shigella thuộc vi khuẩn gram (-) gây ra. Còn bệnh lỵ amíp(Amoebic dysentery) do ký sinh trùng loại đơn bào Entamoeba histolytica gây ra.Hai bệnh này có tên chung thường gọi là kiết lỵ nhưng nguyên nhân gây bệnhkhác nhau, vì vậy cần phân biệt để gọi tên cho chính xác: bệnh lỵ trực khuẩn hoặcbệnh lỵ amíp. Triệu chứng lâm sàng bệnh lỵ trực khuẩn và lỵ amíp có khác nhaukhông? Bệnh lỵ trực khuẩn thường cấp diễn. Thời gian ủ bệnh ngắn từ nửa ngàyđến 7 ngày. Bệnh khởi phát đột ngột, không có triệu chứng báo trước, được biểuhiện bằng hai hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ. Hội chứng nhiễm khuẩn cócác triệu chứng lâm sàng như sốt, rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp.Ở trẻ em có thể có cơn co giật, trẻ chán ăn, khát nước, buồn nôn, bạch cầu tăngcao. Hội chứng lỵ có các triệu chứng lâm sàng như đau bụng, lúc đầu đau âm ỉquanh rốn rồi lan ra toàn bụng theo khung đại tràng. Cuối cùng thành cơn đauquặn bụng, khu trú ở hố chậu trái làm bệnh nhân muốn đi đại tiện, mót rặn và ráthậu môn khi đại tiện, mỗi ngày đi đại tiện hơn 10 lần. Lúc đầu phân sền sệt, sauloãng dần và rất thối, lẫn chất nhầy và máu. Chất nhầy nhiều, đục lờ mờ, ít khitrong, có khi vàng đục như mủ. Máu không tươi mà có màu hồng nhạt hoặc sẫmnhư máu cá. Chất nhầy và máu hòa lẫn với nhau không có độ bám dính. Hộichứng nhiễm khuẩn thường rút ngắn từ 2 - 4 ngày. Hội chứng lỵ có thể kéo dài từ5-10 ngày hoặc hơn tùy thể bệnh và cơ địa của bệnh nhân. Ruột bị tổn thươngthường phục hồi chậm sau 3 - 4 tuần. Bệnh lỵ trực khuẩn thường xảy ra đồng loạtvới nhiều người bị mắc bệnh trên một địa bàn hẹp và trong một thời gian ngắn.Hội chứng lỵ đi đôi với hội chứng nhiễm khuẩn rõ ràng và cấy phân phát hiệnđược vi khuẩn Shigella gây bệnh. Bệnh lỵ amíp thường khởi phát từ từ và bệnh tăng dần. Hội chứng nhiễmkhuẩn không rõ hoặc nhẹ. Tình trạng toàn thân tương đối tốt, ít bị ảnh hưởng. Hộichứng lỵ xảy ra tương đối điển hình. Bệnh nhân bị quặn bụng theo đại tràng xuốngvà đại tràng xích ma, mót rặn và rát hậu môn. Người bệnh muốn đi đại tiện luônnhưng chỉ đi 5 -10 lần trong ngày. Phân được thải ra hết sau một số lần đại tiện,các lần sau đó chỉ còn ít chất nhầy như nhựa chuối với máu đỏ thành tia, khốilượng nhỏ như đồng tiền và có độ bám dính. Soi trực tràng thấy nền niêm mạcmàu hồng gần như bình thường, chỉ thấy một số thương tổn thưa, rải rác như vếtxước, to bằng đầu kim, hạt đậu, bờ nham nhở. Soi phân tươi nhầy máu phát hiệnamíp hút hồng cầu gây bệnh. Tác hại của bệnh như thế nào? Lỵ trực khuẩn gây nên những tác hại như sa hậu môn ở trẻ em, viêm đa dâythần kinh thường ít gặp và tự khỏi, không để lại di chứng. Hội chứng viêm niệuđạo - khớp - kết mạc xuất hiện sau 2 tuần bị tiêu chảy, trong đó viêm niệu đạo vàkết mạc giảm nhanh, còn viêm khớp giảm chậm hơn và có thể để lại di chứng nhưcứng khớp, teo cơ. Biến chứng thủng ruột và viêm màng bụng chỉ thấy ở trẻ emnhưng cũng hiếm gặp. Bệnh gây tác hại nhiều ở đối tượng trẻ em và người lớntuổi. Bệnh lỵ amíp thường gây nên tác hại chức năng đại tràng, viêm đại tràng,trĩ, sa hậu môn, pôlíp đại tràng, rối loạn thần kinh thực vật, đôi khi có biến chứngxuất huyết tiêu hóa, hẹp trực tràng, tắc ruột, lồng ruột, ung thư hóa các tổn thươngở ruột. Một tác hại khác là nếu bị bệnh amíp ở ruột không được chữa trị một cáchkịp thời, dứt điểm thì có thể gây nên biến chứng bệnh áp - xe gan do amíp, haygặp ở bệnh nhân có tiền sử bị lỵ amíp, thường xuất hiện sau đó nhiều tháng khi cơthể bị mệt mỏi, sức đề kháng cơ thể bị giảm sút. Bệnh áp - xe gan do amíp có thểdi căn lên phía trên cơ hoành gây áp - xe phổi, màng phổi, viêm màng ngoài timhoặc di căn xuống phía dưới cơ hoành gây viêm màng bụng, viêm thận. Đôi khi cóbiến chứng chảy máu ồ ạt, hoại thư gây tử vong. Điều trị bằng cách nào? Khi phát hiện được các triệu chứng nghi ngờ bị mắc bệnh kiết lỵ, bệnhnhân phải vào bệnh viện ngay để được khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời, khôngđể bệnh chuyển thành nặng và triệt ngay nguy cơ lây lan bệnh cho cộng đồng ởchung quanh. Để điều trị bệnh: Tùy loại lỵ trực khuẩn hay lỵ amíp mà dùng cácloại thuốc đặc hiệu. Bệnh lỵ trực khuẩn sử dụng các loại thuốc thuộc nhómsulfamide, cotrimoxazole (bactrim, lidaprim, septril, eusaprin...) và các kháng sinh(ampicill ...