Danh mục

Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 259.75 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghề in và đồ họa sách thời NguyễnKhi tìm hiểu về nghề in sách ở Việt Nam thời xưa không thể không nhắc đến Lương Như Hộc và nghề làm giấy của ta. Phổ môn xuất tướng đồ. Kinh in năm Thành Thái 8 (1896). Kinh xếp, 30cmx12cm, 112tr, 42 đồ hình theo dạng nhất thư nhất họa liên hoàn Phần Chư Công nghệ Tổ sư sách Liệt Tiên truyện có chép, Hộc người Hồng Lục huyện Trường Tân lộ Hải Dương, đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), quan đến chức Đô ngự sử,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn Khi tìm hiểu về nghề in sách ở Việt Nam thời xưa không thể không nhắc đến Lương Như Hộc và nghề làm giấy của ta. Phổ môn xuất tướng đồ. Kinh in năm Thành Thái 8 (1896). Kinh xếp, 30cmx12cm, 112tr, 42 đồ hình theo dạng nhất thư nhất họa liên hoàn Phần Chư Công nghệ Tổ sư sách Liệt Tiên truyện có chép, Hộc người Hồng Lục huyện Trường Tân lộ Hải Dương, đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), quan đến chức Đô ngự sử, từng hai lần sang sứ Trung Quốc và học được cách chế bản in. Đi sứ về, Hộc dạy cho dân Hồng Lục và Liễu Tràng (Hồng Liễu), vì thế dân có nghề này. Sau Hộc mất, dân lập đền thờ tôn làm Tổ sư, Triều đình cũng có sắc chỉ phong cho làm Phúc thần. Điều này không có nghĩa là trước đó tại Việt Nam không có nghề khắc in mộc bản. Nhưng trên thực tế mà nói, sự hoạch định thành phường hội, làng nghề phải nói có từ sau khi Hộc đi sứ về. Có thuyết cho rằng suốt từ thế kỷ I đến thế kỷ III, đất Luy Lâu đã là một trung tâm Phật giáo và đã từng cho khắc in kinh Phật. Xem Lý Hoặc luận của Mâu Bác, hay qua chùm thư tranh luận giữa bọn Đạo Cao, Pháp Minh, Lý Miễu cũng đủ biết Phật giáo ở ta thời Bắc thuộc như thế nào. Còn ăn cứ vào ngôn từ trong lá thư của Đàm Thiên gửi Tùy Văn Đế nói về việc in khắc các bộ kinh ở Giao Châu cơ hồ ít chứng liệu để chúng ta có một ý niệm tự hào về lịch sử ngành in nước nhà. Vì thế, để kết luận và khẳng định một cách khoa học lại là điều phải dè dặt rất nhiều. Bởi Trung Quốc vào đầu thế kỷ II Sai Luân mới cải tiến phương pháp làm giấy, mãi đến trước sau thế kỷ VIII họ mới phát minh ra công nghệ in ván khắc. Vì thế thuyết nói trên là không thực, công nghệ khắc in sách ở ta qua các bộ sử lớn đều có đề cập đến, nhất là vào thời Lý- Trần, khi mà Phật giáo đang được sủng ái nơi chốn triều trung đã lợi dụng cho san khắc nhiều lần bộ Đại Tạng kinh thỉnh từ Trung Quốc về phổ biến cho các tự viện trong nước. Nhưng tất cả những gì chúng ta có được vào giai đoạn này đều bị Minh Thành Tổ ra sắc lệnh hủy diệt, nhất là khi Trương Phụ sang nước ta lần hai. Quan đế bảo huấn tượng chú. Bản khắc lại năm Tự Đức Quý Dậu (1873) tại chùa Liên Phái (Hà Nội), theo bản in năm Đạo Quang 2 (1822) Suốt một thời kỳ từ lúc Nguyễn Trãi đọc Cáo Bình Ngô cho đến khi Nguyễn Ánh ngồi rũ áo trên ngôi với bao nhiêu biến cố thăng trầm, vì nhiều lý so khiến cho sách vở của nước ta mất mát nhiều. Theo bước thống kê ban đầu thì 70% số sách còn lại thuộc di sản Hán Nôm là sách chép tay, số sách còn lại là sách in có niên đại sớm nhất vào thời Lê trung hưng trở lại (trong đó số sách in vào thời Nguyễn chiếm đa phần).40 năm đầu của Gia Long và Minh Mạng là thời kỳ vàng son trong sự trì trệ chung của thế cuộc nhà Nguyễn, cho dù có những thành công ghi nhận về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,… Nhưng do bản chất lạc hậu, nền tảng tư tưởng chậm so với lịch sử cho nên Nho giáo chỉ còn là những công thức ràng buộc, Phật giáo ở làng với hệ Tam giáo đồng đường cũng đã nhạt nhẽo đi không còn là chỗ dựa tinh thần thực sự của trí thức và dân lao động. Nếu như công nghệ xuất bản sách ở Trung Quốc hưng thịnh nhất vào thời Tống- Minh thì ở Việt Nam đỉnh cao đó lại được đúc kết ở vương triều phong kiến cuối cùng này. Theo thống kê của Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi thì ở ta có tới 318 “nhà in”, đại bộ phận mang niên đại Nguyễn. Có một số sách gắn với một vài cơ sở in có tiếng và tuổi thọ khá lâu như phường in Hồng Liễu 211 tuổi (1683-1904), Đa Bảo tự 216 tuổi (1665-1881), Vĩnh Khánh tự 157 tuổi (1750-1907), Đoan Nghiêm tự 140 tuổi (1763-1903), Quốc Tử Giám 89 tuổi (1820- 1909), Liễu Văn đường 91 tuổi (1834-1925),… Gắn với một số nhân vật khởi xướng phục hưng công nghệ in khắc trong giai đoạn này như hòa thượng Phúc Đường (chùa Liên Phái), Trần Công Hiến (Hải Học đường), Kiều Oanh (Ánh Hiên hiệu), tổng tài Trương Đăng Quế, Cao Xuân Dục,… Chưa bao giờ nghề in phát triển nở rộ như giai đoạn này. Xét về tính chất học thuật cùng nội dung các sách được in liên quan tới nhiều vấn đề, từ tôn giáo, chính trị, xã hội, văn, sử cho đến pháp chế, nghệ thuật,… Sách in ra được chia theo Tạng (Phật giáo) hoặc theo các bộ Kinh, sử, tử, tập, cử nghệ (Nho giáo) lưu trữ trong các thư viện lớn thời Nguyễn như Thư viện Tụ Khuê (1820-1840), thư viện Quốc Sử quán (1841), thư viện gia đình Lê Nguyên Trung (1846), thư viện Nội các, thư viện Học viện Viễn đông Bác cổ (Ecole Francaise d’ Extrême-Orient),… chưa kể đến những thư viện và những nơi làng bản thuộc các tổ đình lớn như chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Bổ Đà (Bắc Ninh), Vĩnh Khánh (Hải Dương), Bích Động (Ninh Bình), chùa Liên Phái, Bà Đá, Hoằng Ân (Hà Nội),… Tóm lược lại, ta có thể phân hoạch các đầu sách được in thuộc 3 khu vực: 1. Do triều đình phong kiến tổ chức và quản lý; 2. Do đình, chùa, quán, miếu tiến hành; 3. Do các phường hội, tổ chức tư nhân đảm nhiệm. Sự ưu việt về tài chính giúp cho các cơ sở do nhà nước quản lý tiến hành in các bộ sách đồ sộ và có giá trị, điển hình như các bộ Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám, cương mục, hay các bộ Đại Nam liệt truyện, Đăng khoa lục,… cùng một số sách khác đều do Quốc Sử quán đảm nhận in khắc. Khác với những sách do triều đình phong kiến ấn hành, kinh sách thuộc phạm vi nhà chùa, từ, quán đảm nhận thì tính chất học thuật phần lớn liên quan tới tôn giáo, điều này không có nghĩa là Đạo giáo và Phật giáo không khắc các đầu sách liên đới. Điển hình như bộ Hải thượng Y tông tâm lĩnh của Lê Hữu Trác được khắc in ngay tại chùa Đồng Nhân (Bắc Ninh), ván in phần lớn các bộ kinh lớn hiện được tàng bản ở các chùa Vĩnh Khánh, Bổ Đà, Dư Hàng, Bà Đá, Liên Phái, Bích Động,… có nơi chỉ in một hai đầu sách nhưng có những nơi như đền Ngọc Sơn có cả một quyển thư mục sách do bản đều in ra, đủ minh chứng khối lượng sách Tôn giáo được in ra vào giai đoạn này nhiều như thế nào! Tây Phương công cứ. Chùa Bồ Đà (Tứ Ân tự, Việt Yên, Bắc Giang) tổ chức in khắc kinh vào cuối TK 18. Bản in lại năm 1995. Khi nói đến phần sá ...

Tài liệu được xem nhiều: