Những năm 1980 chứng kiến sự nổi lên của hiện tượng “phê phán các định chế”, đồng nghĩa với việc các gallery nghệ thuật không còn tính năng của những không gian vật lý thuần túy. Toàn bộ hệ thống hỗ trợ từng giúp cho các cơ sở nghệ thuật tồn tại và phát triển đều trải qua những cơn thử thách sống còn: công tác tuyển chọn, tổ chức triển lãm, tài trợ, quảng bá, bảo tồn, mua bán, lập hồ sơ khách mời, bổ nhiệm ban quản trị phải thường xuyên đương đầu với việc quản lý các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật sắp đặt trong điêu khắc
Nghệ thuật sắp đặt trong điêu khắc
Những năm 1980 chứng kiến sự nổi lên của hiện tượng “phê phán các định chế”,
đồng nghĩa với việc các gallery nghệ thuật không còn tính năng của những không gian
vật lý thuần túy.
Toàn bộ hệ thống hỗ trợ từng giúp cho các cơ sở nghệ thuật tồn tại và phát triển đều
trải qua những cơn thử thách sống còn: công tác tuyển chọn, tổ chức triển lãm, tài trợ,
quảng bá, bảo tồn, mua bán, lập hồ sơ khách mời, bổ nhiệm ban quản trị phải thường
xuyên đương đầu với việc quản lý các bộ sưu tập theo chủ đề. Hạ tầng cơ sở của các
phòng trưng bày như bục bệ trưng bày, biển báo, bản tin và hàng rào cũng can dự vào
việc tạo nên những khu vực ngoại biên và trung tâm. Mọi người được chăm sóc rất kỹ
lưỡng: không còn bị coi là những kẻ vô danh, ai cũng được quan tâm cùng với văn hóa,
chủng tộc, kể cả những phiền toái về giới tính của mình.
Việc chuyển không gian triển lãm từ gallery nghệ thuật sang quý ra nơi công cộng
bình dị, ví dụ như đường phố, đã làm giảm đi cơ hội (có được vị trí) trưng bày tạm thời
hoặc vĩnh viễn cho những tác phẩm nghệ thuật ba chiều. Vào thập niên 1960 – 1970, xu
hướng nghệ thuật sắp đặt (installation) bắt đầu nở rộ trong điêu khắc công cộng, mà một
trong những địa phương đi đầu trong việc đưa điêu khắc từ gallery vào cuộc sống đời
thường là thành phố Münster của Đức.
Nếu năm 1967, các quan chức Münster còn từ chối món quà của Henry Moore – một
tác phẩm điêu khắc bằng đồng dự kiến dựng tại một địa điểm ngoài trời, thì năm 1977, họ
đã đồng ý cho dựng một tác phẩm điêu khắc kim loại của điêu khắc gia người Mỹ George
Rickey trong công viên thành phố. Việc này gây nên một số phản ứng từ phía công
chúng. Đáp lại những ý kiến băn khoăn lo lắng đó, curator Kasper Konig đã phối hợp với
nhà chức trách thành phố tổ chức một triển lãm điêu khắc gồm có hai phần: phần đầu
trình bày về lịch sử điêu khắc thế kỷ XX theo thứ tự thời gian và được trưng bày trong
viện bảo tàng, trong khi đó phần thứ hai với các tác phẩm điêu khắc theo xu hướng Tối
giản và Hậu Tối giản được bố trí ngoài trời. Sự kiện này đã nhận được sự đồng thuận của
cả quan chức và dân chúng thành phố.
George Rickey , Drei rotierende Quadrate, tác phẩm điêu khắc động dựng trong công
viên thành phố Münster năm 1977 từng bị công chúng phản ứng
Và Konig tiếp tục được thành phố ủy thác tổ chức một triển lãm nữa vào năm 1987.
Lần này, ông mời được sáu mươi ba điêu khắc gia đương đại tham gia sáng tác những
công trình nghệ thuật mới có liên quan đến địa dư và lịch sử của Münster – một đô thị
từng bị đánh bom nặng nề trong Đại chiến Thế giới II và đã tái thiết lại trong những năm
1950. Có thể nói triển lãm điêu khắc ngoài trời năm 1977 như một thử nghiệm, qua đó
thành phố Münster đã nâng cao vị thế của mình trong thế giới nghệ thuật toàn cầu cũng
như thiết lập nên một địa chỉ khả dĩ cạnh tranh được với thành phố Kassel, cũng thuộc
Đức, nơi cứ năm năm một lần lại tổ chức sự kiện nghệ thuật Documenta – một triển lãm
nghệ thuật đương đại vào loại lớn nhất thế giới.
Cuộc thử nghiệm 1977 thành công mỹ mãn, thế giới điêu khắc hăm hở đón chờ cuộc
triển lãm Münster năm 1987 để trưng bày tác phẩm của mình, và họ đã không bị thất
vọng. Một số công trình điêu khắc đã được mua lại cho thành phố và bảo tàng (và hiện
nay chúng vẫn còn hiện diện ở đó). Năm 1997, có gần tám mươi nghệ sĩ đã gửi tác phẩm
tới triển lãm tại Münster, và lần gần đây nhất, năm 2007, số nghệ sĩ tham dự là ba mươi
lăm người. (Ngày nay, triển lãm điêu khắc định kỳ 10 năm một lần tại Münster, Sculpture
Projects Münster, là một trong những triển lãm điêu khắc đương đại quốc tế nổi tiếng thế
giới – ND).
Triển lãm Sculpture Projects Münster
Khác với các không gian đô thị như Münster, đã có những nỗ lực lắp đặt điêu khắc
trong công viên thành phố, hoặc thậm chí còn nhiều hơn ở vùng đồng quê, chẳng hạn như
đã có nhiều nghệ sĩ thực hành xu hướng nghệ thuật Bối cảnh (Land Art) vào thập niên
1960 – 1970, song ngay từ những năm 1930 nhiều hội đồng thành phố đã bắt đầu tổ chức
các triển lãm điêu khắc trong công viên, mà Zurich là một trong những thành phố đi đầu.
Năm 1949, tại Sonsbeek, Hà Lan, và năm sau tại Middelheim, gần Antwerp, đã có những
triển lãm điêu khắc đương đại ngoài trời.
Bảo tàng điêu khắc ngoài trời Middelheim: Tượng “The Dog” của Alexander Calder
(1958), thép sơn đen
Những hoạt động táo bạo tương tự cũng diễn ra sau đó tại công viên Battersea Park
ở London. Công viên Middelheim đã trở thành địa điểm thường trú của các tác phẩm điêu
khắc, thậm chí được coi là hình mẫu khi người ta thiết kế công viên văn hóa Kröller-
Müller tại Otterlo, Hà Lan vào năm 1961.
Công viên văn hóa Kröller-Müller
Vài năm sau, Isamu Noguchi đã xây dựng đồ án Vườn điêu khắc Rose Billy ở
Jerusalem, và cũng trong thời gian đó, Trung tâm nghệ thuật Storm King, một công viên
điêu khắc ngoài trời, đã được khánh thành tại Mountainville, mạn bắc New York. Những
người sáng lập Trung tâm Storm King kể rằng rằng họ có cảm hứng thành lập một địa
điểm dã ngoại cho điêu khắc đương đại sau khi được chiêm ngưỡng gần một trăm tác
phẩm của David Smith do chính nghệ sĩ sắp đặt trong khu vực xung quanh ngôi nhà của
ông và tại xưởng điêu khắc ở Bolton Landing.
Trung tâm nghệ thuật Storm King, một công viên điêu khắc ngoài trời
Đây là một trong những cuộc hôn phối tuyệt vời giữa điêu khắc và địa điểm nhờ tầm
nhìn của một con người hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Nhưng việc trưng bày điêu khắc ở
nơi đông đúc cũng nảy sinh nhiều vấn đề. Trong những năm 1970, phê bình gia kiêm
curator Jean-Christophe Amman còn đưa ra thuật ngữ “điêu khắc tiện thể” (hay “điêu
khắc nhảy dù” – “drop sculpture”) để mô tả cái bản chất tùy ý và không biệt vị (non-
specific) của một số tác phẩm điêu khắc công cộng/ngoài trời (được dựng lên tại một số
nơi hết sức cẩu thả). Hầu như tất cả các tác phẩm điêu khắc tại Münster đã được lắp đặt
tại những vị trí rất cụ thể (site-specific), ...