Nghệ thuật Đại Việt thời Lý phản ánh thành tựu các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Lý, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc. Gạch lát nền trang trí hoa cúc, thế kỷ 11-12, được tìm thấy tại Thành cổ Hà Nội. Những công trình kiến trúc chủ yếu thời kỳ này là kinh thành, cung điện, dinh thự các quan lại, lăng mộ vua chúa và đặc biệt là chùa chiền, đền miếu. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghệ thuật Việt Nam thời Lý
Nghệ thuật Việt Nam thời Lý
Nghệ thuật Đại Việt thời Lý phản ánh
thành tựu các loại hình nghệ thuật của
nước Đại Việt dưới thời nhà Lý, chủ yếu trên
lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc.
Mục lục
1 Kiến trúc
1.1 Kinh thành, cung điện
o
1.2 Chùa, đền, miếu
o
2 Điêu khắc, đúc tượng
3 Âm nhạc
4 Đánh giá khái quát
5 Xem thêm
6 Tham khảo
7 Chú thích
Kiến trúc
Gạch lát nền trang trí hoa cúc, thế kỷ 11-12, được tìm thấy tại Thành cổ Hà Nội.
Những công trình kiến trúc chủ yếu thời kỳ này là kinh thành, cung điện, dinh thự
các quan lại, lăng mộ vua chúa và đặc biệt là chùa chiền, đền miếu.
Kinh thành, cung điện
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả việc xây dựng kinh thành Thăng Long thời Lý Thái
Tổ như sau[1]:
Xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng
điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu
dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân,
cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao
Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung
quanh bốn phía...
Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trên
núi Nùng (Long Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm
thành Thăng Long[2]. Công trình hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật
của giới khảo cổ học Việt Nam từ năm 2002 đã cho thấy những dấu tích của nghệ
thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những công trình mang các đặc điểm[3]:
Đẹp và công phu
Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)
Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai
quật)
Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá - gạch - đất
nung
Quy hoạch thống nhất và cân xứng
Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp
các nhà khảo cổ nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây[4]:
Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà lát gạch vuông, có cống thoát nước
Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh
các mặt bằng kiểu lục giác, bát giác
Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển
biến vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long[4].
Bến sông Hồng có điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác,
trên hồ Dâm Đàm có cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như
Xuân Quang, Thượng Lâm, Quỳnh Lâm, Bảo Hoa... Đời Lý Thái Tông làm thêm
điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), phía
đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.
Chùa, đền, miếu
Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý
được chia làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam[2].
Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa
Long Đọi (Hà Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một
Cột), dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm
1105, Lý Nhân Tông cho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài
hồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh, ngoài hồ có hành lang lại đào hồ Bích
Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có
nhiều tầng nền giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền
đã có chiều dài 120 mét và rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua
trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp. Trong
chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả 3 yếu tố thiền,
tịnh, mật của các tông phái Phật giáo[5].
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét, tháp Phổ
Minh cao 14 tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, tháp
Sùng Thiện Diên Linh 13 tầng, tháp Vạn Phong Thành Thiện… Các tháp được
trang trí tượng tròn, phù điêu bằng đá, đất nung đẹp và nhiều tranh vẽ Phật trên
tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề động vật, thực vật tươi vui[4]
Ngoài chùa, nhà Lý còn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu
gác trên núi Cung vua, Văn Miếu - Quốc Tử Giám... Việc xây dựng thời Lý được
tuân thủ theo một nguyên tắc quy hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù
hợp với quy luật tự nhiên, hài hòa cao với cảnh quan xung quanh, tận dụng tối đa
lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra sự hòa hợp lâu dài giữa con người với
công trình và thiên nhiên[6]. Chùa thời Lý được đặt trong một quần thể kiến trúc,
tại những nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng đồng dân cư, gần
làng sát nước[5].
Điêu khắc, đúc tượng
Đầu rồng trang trí mái cung điện thời nhà Lý.
Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở
những công trình không có tên trong sử sách hay bia cổ cũng được trang hoàng uy
nghiêm, bài trí lộng lẫy.[7]
Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa văn hoa
cúc nhiều cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong
chiếc lá đề. Đặc điểm chung là chân thực, đơn giản, khỏe mạnh.[8]
Nghệ thuật đúc chuông – tô tượng rất phổ biến. Nước Đại Việt có 4 công trình
nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó
được tạo ra thời Lý:[9][10][8][11][12][13]
1. Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây trên một
quả gò cạnh hồ Lục Thủy vào tháng ba năm 1057 đời vua Lý Thánh Tông,
trong phạm vi chùa Báo Thiên. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng
2. Chuông Quy Điền (chùa Một Cột – Hà Nội) đúc năm 1080 thời Lý Nhân
Tông.
3. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh ...